thắp sáng hy vọng: casting light in the shadows: thiếu niên ở … · 2019-08-13 ·...
TRANSCRIPT
Casting Light in the Shadows:
Child and youth migration, exploitation and
Thắp sáng Hy vọng:
Di cư, bóc lột và nạn buôn bán trẻ em và thanh
thiếu niên ở Việt Nam
Kara Apland và Elizabeth Yarrow
THẮP SÁNG HY VỌNG
2
Mục lục
MỤC LỤC ..................................................................................................................................................... 2
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................................................... 4
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................................................................. 6
1. GIỚI THIỆU .......................................................................................................................................... 7
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .............................................................................................................. 8 2.1. MỤC TIÊU CỦA NGHIÊN CỨU ...................................................................................................................... 8 2.2. PHƯƠNG PHÁP ........................................................................................................................................ 8
2.2.1. Nghiên cứu định tính ......................................................................................................................... 8 2.2.2. Nghiên cứu định lượng ...................................................................................................................... 9
2.3. HẠN CHẾ CỦA NGHIÊN CỨU ...................................................................................................................... 15
3. HƯỚNG TỚI KHUNG KHÁI NIỆM ĐỂ XÁC ĐỊNH VÀ ĐO LƯỜNG BUÔN BÁN (TRẺ EM) .......................... 17 3.1. ‘NẠN BUÔN NGƯỜI’ NỔI LÊN LÀ MỘT VẤN ĐỀ THU HÚT SỰ QUAN TÂM CỦA CỘNG ĐỒNG QUỐC TẾ ....................... 17 3.2. TÌM HIỂU VỀ BUÔN BÁN NGƯỜI: NHỮNG TRANH LUẬN VÀ THÁCH THỨC TRONG ĐỊNH NGHĨA ............................... 19 3.3. GỢI Ý NGHIÊN CỨU ................................................................................................................................. 21
4. QUY MÔ NẠN BUÔN BÁN (TRẺ EM) Ở VIỆT NAM ............................................................................... 22 4.1. TÍNH TOÁN MỨC ĐỘ PHỔ BIẾN CỦA ‘CÁC CHỈ SỐ BUÔN BÁN’ .......................................................................... 23 4.2. TỔNG ƯỚC TÍNH MỨC ĐỘ PHỔ BIẾN CỦA TRẺ CÓ CHỈ SỐ BUÔN BÁN TRẺ EM...................................................... 28
4.2.1. Mức độ phổ biến của các dấu hiệu buôn bán trẻ em: các hình thái cơ bản và xu thế .................... 31
5. PHƯƠNG THỨC TUYỂN MỘ: BUÔN BÁN NGƯỜI XẢY RA NHƯ THẾ NÀO ............................................ 34 5.1. MẦM MỐNG BỊ BUÔN BÁN: LỜI HỨA (GIẢ DỐI) VỀ CÁC CƠ HỘI ...................................................................... 34 5.2. QUÁ TRÌNH TUYỂN MỘ ............................................................................................................................ 36 5.3. LÀM RÕ YẾU TỐ ĐỒNG THUẬN VÀ CƯỠNG ÉP: VAI TRÒ TRUNG GIAN CỦA THANH THIẾU NIÊN TRONG QUÁ TRÌNH TUYỂN
MỘ ........................................................................................................................................................... 38 5.3.1. Vai trò tác động của cha mẹ và gia đình ......................................................................................... 38 5.3.2. ‘Em bị đánh thuốc mê’: Những câu chuyện bị cưỡng ép tuyển mộ ................................................. 41
5.4. TUYỂN MỘ VÀ TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG ..................................................................................................... 44
6. TRẢI NGHIỆM (LIÊN QUAN ĐẾN) BỊ BUÔN BÁN: NHẬN DIỆN BUÔN BÁN NGƯỜI ................................ 50 6.1. CÁC HÌNH THỨC BÓC LỘT ......................................................................................................................... 50 6.2. TÌM HIỂU VỀ TRẢI NGHIỆM BỊ BUÔN BÁN CỦA TRẺ ........................................................................................ 52
6.2.1 Cơ chế ép buộc và kiểm soát ............................................................................................................ 55
7. HẬU THỜI KÌ BUÔN BÁN: TRẢI NGHIỆM TÁI HOÀ NHẬP VÀ TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ ..................... 60 7.1. SỨC KHOẺ TINH THẦN BỊ GIẢM SÚT ............................................................................................................ 60 7.2. THÁCH THỨC TRONG TÁI HOÀ NHẬP .......................................................................................................... 62 7.3. TIẾP CẬN CÁC DỊCH VỤ HỖ TRỢ ................................................................................................................. 65 7.4. RÀO CẢN TIẾP CẬN DỊCH VỤ: HẠN CHẾ TRONG NHẬN DIỆN NẠN NHÂN ............................................................. 66 7.5. RÀO CẢN TỪ PHÍA NẠN NHÂN TRONG TIẾP CẬN CÁC DỊCH VỤ HỖ TRỢ .............................................................. 68 7.6. TRẢI NGHIỆM TIẾP NHẬN CÁC DỊCH VỤ HỖ TRỢ ............................................................................................ 70
Tháng 6/2019
3
8. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .............................................................................................................. 73 8.1. CÁC PHÁT HIỆN CHÍNH VÀ KẾT LUẬN .......................................................................................................... 73 8.2. ĐỊNH HƯỚNG CHO CÁC NỖ LỰC PHÒNG NGỪA VÀ ỨNG PHÓ VỚI BUÔN BÁN NGƯỜI .......................................... 75
THẮP SÁNG HY VỌNG
4
Lời cảm ơn
Báo cáo này được thực hiện bởi hai tác giả Kara Apland và Elizabeth Yarrow thuộc Trung tâm Pháp chế Trẻ em
của tổ chức Coram Quốc tế dưới dự giám sát và chỉ dẫn kỹ thuật của Giáo sư Dame Carolyn Hamilton, Giám
đốc tổ chức Coram Quốc tế. Báo cáo cũng được rà soát và nhận được những đóng góp và hỗ trợ kỹ thuật từ
Charlotte Baker, Ruth Barnes, Maurice Dunaiski, Tiến sĩ Anna Mackin, Awaz Raoof và Tiến sĩ Lauren Wroe.
Công việc thu thập dữ liệu được thực hiện bởi nhóm nghiên cứu đến từ Viện Nghiên cứu Con người (tại Hà
Nội, Việt Nam) và Viện Khoa học Lao động và Xã hội trực thuộc Bộ Lao động Thương Binh Xã hội.
Báo cáo là một phần của dự án “Thắp sáng hy vọng: Chống lại nạn buôn bán và nô lệ trẻ em tại Việt Nam” do
Quỹ Bảo vệ Chống lại nạn buôn bán trẻ em thuộc Bộ Nội Vụ Anh tài trợ. Các tác giả và nhóm nghiên cứu xin
ghi nhận và chân thành cảm ơn mối quan hệ đối tác với Quỹ Nhi Đồng Liên Hợp quốc tại Việt Nam trong việc
điều phối công tác thu thập dữ liệu và tổ chức các hội thảo tham vấn trong nước cũng như những hỗ trợ và
trợ giúp quý báu từ hai đối tác dự án là UNICEF Việt Nam và UNICEF Vương Quốc Anh (UNICEF UK), đặc biệt
là cá nhân ông Nguyễn Ngọc Anh, Ommera Ahmed và Stefan Stoyanov.
Về tổ chức Coram Quốc tế: Coram Quốc tế là một tổ chức tư vấn
đa ngành có uy tín trên thế giới về lĩnh vực quyền trẻ em. Chúng tôi
trực thuộc Trung tâm Pháp chế Trẻ em Coram (CCLC), một tổ chức
từ thiện trẻ em hàng đầu ở Anh, cam kết thúc đẩy và bảo vệ quyền
trẻ em ở Anh và trên toàn thế giới. Coram Quốc tế hợp tác với các
chính phủ, các cơ quan Liên Hợp quốc và các tổ chức phi chính phủ
Quốc tế ở hơn 80 quốc gia nhằm thúc đẩy quyền trẻ em thông qua
cải cách luật pháp, chính sách và thực thi. Trong 20 năm qua, Coram
Quốc tế đã tiến hành các nghiên cứu định lượng và nghiên cứu sâu
định tính, hỗ trợ và chủ trì cải cách hệ thống liên quan đến quyền
trẻ em và đã có nhiều xuất bản phẩm về chủ đề quyền trẻ em và
vấn đề Giới.
Tháng 6/2019
5
Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm: Nghiên cứu và dự án này được
tài trợ bởi Quỹ Bảo vệ Chống lại nạn buôn bán trẻ em thuộc Bộ
Nội Vụ Anh. Báo cáo nghiên cứu này được xây dựng độc lập bởi
tổ chức Coram Quốc tế trực thuộc Trung tâm Pháp chế Trẻ em
Coram. Bất kỳ ý kiến nào nêu trong tài liệu này không nhất thiết
thể hiện quan điểm chính thức của Chính phủ Anh.
THẮP SÁNG HY VỌNG
6
Danh mục từ viết tắt
CCLC Trung tâm Pháp chế Trẻ em Coram
CP Bảo vệ trẻ em
DoLISA Sở Lao động, Thương Binh, Xã hội
ICT dấu hiệu buôn bán trẻ em
IFEM dấu hiệu bị cưỡng ép hoặc bóc lột trong quá trình di cư
IHS Viện Nghiên cứu con người
ILSSA Viện Lao động, Khoa học và Xã hội
IOM Tổ chức Di cư Quốc tế
INGO Tổ chức Phi chính phủ Quốc tế
MoLISA Bộ Lao đông, Thương binh, Xã hội
RCFLG Trung tâm Nghiên cứu về Giới và Lao động nữ
UNICEF Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc
VOT Nạn nhân bị buôn bán
Tháng 6/2019
7
1. Giới thiệu
Báo cáo này trình bày những kết quả từ một nghiên cứu kéo dài hai năm rưỡi do một nhóm các nhà nghiên
cứu pháp lý xã hội đến từ tổ chức Coram Quốc tế thực hiện nhằm củng cố các bằng chứng về nạn buôn bán
trẻ em và bóc lột lao động ở Việt Nam. Báo cáo tìm hiểu các loại hình và động cơ của nạn buôn bán trẻ em và
bóc lột lao động, xác định các yếu tố cụ thể làm gia tăng tính dễ bị tổn thương của trẻ em và xem xét trải
nghiệm của những người từng bị buôn bán trở về tái hòa nhập và tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ. Nghiên cứu được
thực hiện với sự hợp tác của UNICEF Việt Nam và UNICEF UK và được Quỹ Bảo vệ Chống lại nạn buôn bán trẻ
em thuộc Bộ Nội Vụ Anh tài trợ1.
Trong hai thập kỷ qua, buôn bán người gây sự chú ý đáng kể trên toàn thế giới. Ngày 15 tháng 11 năm 2000,
Đại Hội đồng Liên Hợp quốc đã thông qua Công ước Liên Hợp quốc Chống lại tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia ban hành kèm theo Nghị định thư về Phòng ngừa, Trấn áp và Trừng trị tội phạm buôn bán người đặc biệt
là Phụ nữ và Trẻ em. Kể từ đó, nhiều nghiên cứu về buôn bán trẻ em đã được thực hiện với sự quan tâm đặc
biệt dành cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long – nơi có ngành công nghiệp tình dục khá nổi tiếng trong khu
vực. Tuy vậy, vẫn còn những khoảng trống đáng kể về kiến thức và hiểu biết về nạn buôn bán trẻ em do những
thách thức trong thu thập bằng chứng về hoạt động mang tính bất hợp pháp và bí mật này, cũng như những
thách thức trong xác định và đo lường một khái niệm còn nhiều tranh cãi và mang tính chính trị.
Nghiên cứu này được thiết kế để bổ sung cho những bằng chứng hiện có về nạn buôn bán trẻ em ở Việt Nam.
Nghiên cứu nhằm củng cố hiểu biết về hiện tượng này từ quan điểm của trẻ em và các thanh thiếu niên đã
từng bị buôn bán. Cách tiếp cận của chúng tôi, sẽ được mô tả chi tiết hơn trong mục phương pháp dưới đây,
là quy nạp và dựa trên kinh nghiệm. Các phân tích và kết luận được đưa ra dựa trên trải nghiệm cụ thể và
thực tế của trẻ em và thanh thiếu niên Việt Nam.
Nghiên cứu này là một phần của dự án rộng hơn kéo dài hai năm rưỡi với mục tiêu củng cố công tác phòng
ngừa và ứng phó với nạn buôn bán trẻ em tại Việt Nam. Ngoài nghiên cứu pháp lý xã hội này, dự án còn hai
hợp phần khác. Hợp phần thứ nhất gồm các hội thảo tham vấn liên ngành nhằm củng cố công tác điều phối
giữa các bên liên quan, chia sẻ những thực hành tốt và xác định các thách thức và thiếu hụt. Hợp phần thứ hai
tập trung xây dựng và thực hiện các hoạt động nâng cao năng lực làm việc về các vấn đề liên quan đến trẻ em
cho các cơ quan chức năng và cán bộ làm công tác trực tiếp phòng ngừa và ứng phó với nạn buôn bán người.
Nghiên cứu được thiết kế và thực hiện bởi tổ chức Coram Quốc tế với sự hợp tác của UNICEF Việt Nam và
UNICEF UK. Số liệu trong nghiên cứu được thu thập bởi tổ chức Coram Quốc tế, Trung tâm Nghiên cứu về Giới
và Lao động nữ (RCFLG), Viện Khoa học Lao động và Xã hội (ILSSA), Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (MoLISA)
và Viện Nghiên cứu Con người (IHS) Việt Nam.
1 Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Bảo vệ Chống lại nạn buôn bán trẻ em thuộc Bộ Nội Vụ Anh. Nghiên cứu này
được độc lập tiến hành bởi Bộ Nội Vụ Anh. Mọi ý kiến trong báo cáo nghiên cứu này không nhất thiết đại diện cho
quan điểm của Chính phủ Anh.
THẮP SÁNG HY VỌNG
8
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thiết kế với các phương pháp hỗn hợp nhằm đào sâu và phát huy các thế mạnh khác nhau
của cả hai phương pháp định lượng và định tính trong thu thập và phân tích số liệu. Trong bối cảnh công tác
phòng chống buôn bán người, lâu nay các nhà bình luận thường quan ngại về việc thiếu các bằng chứng đáng
tin cậy, chắc chắn, có thể định lượng (dẫn đến những tuyên bố thiếu căn cứ và không đủ mạnh về quy mô và
bản chất của buôn bán người). Mặt khác họ cũng chỉ ra rằng vẫn còn thiếu sự chú ý tới sự phức tạp và tính
linh hoạt của vấn đề và bối cảnh khi hình thành các bằng chứng dựa trên trải nghiệm sống của chính các chủ
thể bị buôn bán (Yea, 2017).
Nghiên cứu này nhằm giải quyết hai vấn đề đáng quan tâm: thu thập một hệ thống số liệu mạnh, có thể đo
lường, có thể so sánh và khái quát hóa đồng thời vẫn đảm bảo số liệu có chiều sâu, giải thích được vấn đề và
bao gồm đa dạng các câu chuyện cá nhân và các trường hợp điển hình. Mục tiêu là thu thập được các chứng
cứ phức tạp và mang tính khái quát để từ đó có thể đưa ra khuyến nghị cải thiện hiệu quả các can thiệp nhằm
phòng ngừa và ứng phó với nạn buôn người.
2.1. Mục tiêu của nghiên cứu
Cân nhắc những điều nói trên, phương pháp nghiên cứu được thiết kế nhằm đạt các mục tiêu sau:
1. Thu thập số liệu về quy mô, nguyên nhân, các loại hình và xu thế nạn buôn bán trẻ em và thanh thiếu niên tại Việt Nam (định lượng);
2. Thu thập số liệu về những trải nghiệm của trẻ em và thanh thiếu niên (tuổi từ 10 đến 24) bị ảnh hưởng bởi buôn bán người (định tính);
3. Thu thập số liệu về tiếp cận các dịch vụ bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán trở về, những trải nghiệm và đánh giá của họ về các dịch vụ này và kết quả đầu ra (định lượng và định tính).
4. Thu thập một hệ thống số liệu phục vụ cho các can thiệp nhằm củng cố chính sách và dịch vụ để có
thể phòng ngừa và ứng phó hiệu quả nhất với nạn buôn người và giảm thiểu tính dễ bị tổn thương
của trẻ em với nạn buôn người (định lượng và định tính).
2.2. Phương pháp
2.2.1. Nghiên cứu định tính
Hợp phần định tính của nghiên cứu tập trung giải quyết mục tiêu 2, 3 và 4. Số liệu được thu thập thông qua
một loạt (cỡ mẫu n=103) phỏng vấn bán cấu trúc và phỏng vấn sâu kinh nghiệm của các bên liên quan trong
công tác phòng chống buôn bán người cũng như những thanh thiếu niên từng trải nghiệm bị buôn bán đã trở
về, người chăm sóc hoặc gia đình các em.
Hầu hết số liệu định tính được thu thập bởi các cán bộ từ Viện Nghiên cứu Con người (IHS): các phỏng vấn
được thực hiện bằng tiếng Việt cũng như tiếng dân tộc (ví dụ như H’mong), biên bản/ghi chép lại các phỏng
vấn được dịch sang tiếng Anh, trước khi được mã hóa và phân tích bằng phần mềm Nvivo. Một số ít các phỏng
vấn được các nghiên cứu viên của Coram tiến hành có sử dụng phiên dịch bản ngữ.
Tháng 6/2019
9
Phỏng vấn bán cấu trúc
Tổng số 54 phỏng vấn cá nhân bán cấu trúc được tiến hành với các cán bộ chính quyền ở cấp trung ương, tỉnh,
huyện và xã, bao gồm: bộ đội biên phòng, công an, thẩm phán, các cán bộ tư pháp, đại diện các Bộ/Sở Lao
động Thương binh và Xã hội (trong đó có cả các cán bộ xã hội làm việc tại các trung tâm bảo trợ xã hội), và đại
diện Hội Phụ nữ. Mười một phỏng vấn được tiến hành với đại diện của các Tổ chức Phi chính phủ Quốc tế,
các Tổ chức Phi chính phủ địa phương và các Tổ chức Quốc tế hoạt động trong lĩnh vực phòng ngừa và ứng
phó với nạn buôn người. Cuối cùng, tám cuộc phỏng vấn được tiến hành với các bên liên quan khác gồm môi
giới hôn nhân, nhân viên quán karaoke và những người tuyển dụng.
Các cuộc phỏng vấn này nhằm nắm bắt quan điểm, năng lực và mối quan tâm của những cán bộ làm công tác
bảo vệ và hỗ trợ cho các thanh thiếu niên có nguy cơ hoặc là mục tiêu của buôn bán người ở Việt Nam. Người
phỏng vấn được lựa chọn thông qua các đối tác của UNICEF, chính phủ và các NGO quốc tế, thông qua lấy mẫu
nhóm 'các bên liên quan' dựa trên mức độ kinh nghiệm trực tiếp của họ về a) làm việc trong các lĩnh vực chính
sách liên quan trực tiếp đến buôn bán người hoặc b) tương tác với nạn nhân bị buôn bán trong vị trí công việc
của họ. Hướng dẫn phỏng vấn được xây dựng để đảm bảo chuẩn hóa số liệu thu thập từ mỗi người cung cấp
thông tin; tuy nhiên khi triển khai phỏng vấn vẫn đảm bảo tính linh hoạt để cho phép tương tác phù hợp với
người tham gia phỏng vấn.
Phỏng vấn trải nghiệm sống
Thêm vào đó, 48 cuộc phỏng vấn sâu về cuộc sống của trẻ em và thanh thiếu niên từ 12‐24 tuổi, những người
từng trải nghiệm bị buôn bán, bao gồm 20 trẻ em/thiếu niên nam và 28 trẻ em/thiếu niên nữ đã được thực
hiện.
Các cuộc phỏng vấn này nhằm ghi lại một cách phong phú và chi tiết các trải nghiệm của các nạn nhân bị buôn
bán, bao gồm quá trình dẫn đến sự ra đi của họ, họ đã bị bóc lột như thế nào tại điểm đến, hoàn cảnh khi họ
đi và khi trở về, và trải nghiệm của họ sau khi đã trở về. Mục đích của việc tiếp cận theo tiến trình cuộc sống
là để có một bức tranh tổng thể về cuộc sống của của các nạn nhân: để có thể hiểu hoàn cảnh riêng và hoàn
cảnh gia đình họ và trải nghiệm bị buôn bán của họ, từ đó có thể phân tích và rút ra bất cứ dấu hiệu hay vấn
đề mang tính hệ thống nào là yếu tố nguy cơ đối với những gì các thanh thiếu niên này đã trải qua trước, trong
và sau khi bị buôn bán, và liên hệ chúng với hoàn cảnh và những đặc điểm cá nhân của người đó. Những cuộc
phỏng vấn tiến trình cuộc sống của nạn nhân được bổ sung bằng một phỏng vấn riêng với người chăm sóc
hoặc thành viên gia đình họ bất cứ khi nào có thể.
Những người tham gia phỏng vấn sâu được tiếp cận thông qua các cơ sở hỗ trợ nạn nhân, những nơi cung cấp
dịch vụ hỗ trợ phục hồi và tái hòa nhập khác cho nạn nhân bị buôn bán và thông qua đại diện Hội Phụ nữ địa
phương, những người biết các câu chuyện của trẻ em và các gia đình ở các xã, làng trên địa bàn. Người trả lời
phỏng vấn được chọn thông qua lấy mẫu với biến thể lớn nhất để tối đa hóa sự đa dạng về độ tuổi (trong
phạm vi độ tuổi đã được chỉ định cho nghiên cứu), giới tính, loại hình dịch vụ nhận được và đặc điểm về trải
nghiệm khi bị buôn bán của họ (ví dụ: họ đã làm ngành nghề gì khi bị buôn bán).
2.2.2. Nghiên cứu định lượng
Chuỗi định lượng của nghiên cứu tập trung đáp ứng mục tiêu nghiên cứu 1 và 3. Mục đích là thu thập một số
dữ liệu một cách toàn diện và có tính đại diện về quy mô của nạn buôn bán và bóc lột trẻ em ở Việt Nam cũng
THẮP SÁNG HY VỌNG
10
như một số dữ liệu có thể định lượng và đo lường được về các trải nghiệm bị buôn bán, các yếu tố nguy cơ,
kết quả việc tiếp cận các dịch vụ sau khi nạn nhân trở về.
Để đạt được điều này, nhóm đã thiết kế và thực hiện ba cuộc khảo sát riêng biệt.
Khảo sát 1: Khảo sát người thụ hưởng các dịch vụ hỗ trợ
Cuộc khảo sát đầu tiên được thực hiện với trẻ em và thanh thiếu niên (tuổi từ 12‐24) đã được công nhận chính
thức là nạn nhân bị buôn bán và hiện đang hoặc đã nhận được các dịch vụ hỗ trợ thông qua các trung tâm bảo
trợ xã hội của nhà nước và các chương trình khác (sau đây gọi tắt là ‘khảo sát người thụ hưởng’).
Mục đích của khảo sát này nhằm thu thập một số số liệu cơ bản mang tính mô tả và tiêu chuẩn để có thể phân
tích khách quan các yếu tố liên quan đến nhân khẩu học, trải nghiệm bị buôn bán, các dịch vụ hỗ trợ đã nhận
được kể từ khi trở về, những tác động đến sức khỏe và cuộc sống của người tham gia khảo sát.
Những người tham gia khảo sát đã được lựa chọn từ các nhà tạm lánh ở bảy tỉnh. Các tỉnh được lựa chọn có
chủ đích2 nhằm phản ánh tính đa dạng về địa lý và dân tộc của các 'điểm nóng’ về buôn bán người được biết
đến ở Việt Nam, bao gồm: Lào Cai (Tây Bắc), Bắc Giang (Đông Bắc), Lạng Sơn (Đông Bắc), Thừa Thiên‐Huế (Bắc
Trung Bộ), Đắc Lắc (Tây Nguyên), Cần Thơ (Đồng bằng sông Cửu Long) và Tây Ninh (Đông Nam Bộ).
Sau đó một cơ sở hỗ trợ nạn nhân đã được chọn có chủ ý từ mỗi 7 tỉnh này. Việc lựa chọn cơ sở hỗ trợ nạn
nhân có chủ ý được thực hiện với mục đích tối đa hóa sự đa dạng trong 1) bản chất của các hình thức bóc lột
mà các nạn nhân đã phải trải qua; 2) Địa bàn nạn nhân bị buôn bán đến; và 3) Loại hình cơ quan cung cấp dịch
vụ vận hành cơ sở hỗ trợ nạn nhân.3
Mỗi cơ quan/trung tâm hỗ trợ đồng ý tham gia nghiên cứu cung cấp một danh sách trẻ em và thanh thiếu niên
từ 12‐24 tuổi hiện đang hoặc trước đó đã thụ hưởng các dịch vụ hỗ trợ. Sau đó phương pháp lấy mẫu cơ hội
đã được sử dụng, mỗi người trả lời tiềm năng trong danh sách đã được tiếp cận để khảo sát.
Tổng cộng có 86 trẻ em và thanh niên tham gia vào Khảo sát người thụ hưởng, bao gồm 22 trẻ em trai/nam
thanh niên (25,6%) và 64 trẻ em gái/nữ thanh niên (74,4%).
2 Do những khó khăn trong tiếp cận với trẻ em và thanh thiếu niên cư trú trong các cơ sở hỗ trợ nạn nhân, việc thực
hiện một cuộc khảo sát toàn diện mang tính đại diện toàn quốc đối với nhóm người thụ hưởng này là không khả thi. 3 Các cơ quan cung cấp dịch vụ đã tiếp cận bao gồm: các Trung tâm bảo trợ xã hội của nhà nước, một cơ sở hỗ trợ nạn nhân do cơ quan chức năng địa phương quản lý với nguồn tài trợ từ các tổ chức quốc tế (Nhà Nhân Ái), các dịch vụ hỗ trợ do ngành lao động cung cấp tại cộng đồng, các dịch vụ hỗ trợ từ dự án của các tổ chức quốc tế như IOM (ở Bắc Giang, Huế, Tây Ninh).
Tháng 6/2019
11
Hình 1: Bản đồ đánh dấu các tỉnh thực hiện khảo sát người thụ hưởng các dịch vụ hỗ trợ
THẮP SÁNG HY VỌNG
12
Khảo sát 2: Khảo sát hộ gia đình các thanh thiếu niên
Khảo sát thứ hai là một cuộc khảo sát hộ gia đình mang tính đại diện toàn quốc cho nhóm trẻ 12 đến 24 tuổi
tại Việt Nam (sau đây gọi là ‘Khảo sát hộ gia đình các thanh thiếu niên’).
Cuộc khảo sát đặt các câu hỏi về trải nghiệm di cư của các thanh thiếu niên cũng như những trải nghiệm về
việc bị ép buộc và bóc lột đã xảy ra trong quá trình di cư, với mục đích đầy tham vọng là thu thập một số thông
tin mang tính đại diện quốc gia về quy mô nạn buôn bán trẻ em trong độ tuổi này. Cuộc khảo sát cũng bao
gồm các câu hỏi về đặc điểm nhân khẩu học và hoàn cảnh gia đình các em, để thu thập thông tin về các yếu
tố nguy cơ và mối tương quan với các trải nghiệm bị buôn bán, và khi có thể cũng bao gồm các câu hỏi về việc
tiếp cận các dịch vụ và hỗ trợ tái hòa nhập cũng như tác động tới sức khỏe và cuộc sống hiện tại của các em.
Khảo sát được thực hiện thông qua thiết kế chọn mẫu ba giai đoạn bao gồm cả phân tầng và gộp theo cụm.
Giai đoạn đầu, phương pháp xác suất tỷ lệ với kích thước mẫu được sử dụng để chọn ra hai xã/phường trong
phạm vi 16 tầng theo khu vực, được tạo ra bằng cách chia tất cả các xã và phường trong mỗi 8 khu vực địa lý
cấp hai của Việt Nam thành hai nhóm riêng biệt: xã nông thôn và phường đô thị. Theo đó đã lựa chọn ra được
tổng cộng 32 xã/phường.
Giai đoạn hai, chọn ngẫu nhiên từ mỗi xã bốn "điểm xuất phát" về mặt vị trí và bắt đầu với mỗi "điểm xuất
phát", các điều tra viên sử dụng chiến lược bước ngẫu nhiên chọn ra 27 hộ gia đình (trên cùng một dãy phố
sử dụng một giá trị vòng lặp đã định trước để chọn ra hộ gia đình tham gia khảo sát). Kết quả đã chọn được
tổng số 108 (27 x 4) hộ gia đình mỗi xã.
Giai đoạn cuối, sàng lọc từ mỗi hộ gia đình đã chọn xem gia đình đó có người đủ điều kiện từ 12‐24 tuổi hay
không. Với các hộ có nhiều hơn một người 12‐24 tuổi, chọn ngẫu nhiên một người tham gia khảo sát sử dụng
phương pháp lưới Kish4.
Các giả định sau đây được sử dụng để ước tính kích thước mẫu: khoảng tin cậy (CI) 95%, sai số lề/mức độ
chính xác là +/‐ 2,9%), biến thiên tối đa (50%) trong dân số và hiệu quả thiết kế mẫu là 1,5. Theo phương pháp
này, các nhà nghiên cứu đã thu được cỡ mẫu ban đầu là 3.453 bảng hỏi đã hoàn thành.
Cuối cùng, trong giai đoạn 1 của quy trình lấy mẫu, ngoài 32 xã được chọn ngẫu nhiên, nhóm nghiên cứu đã
quyết định bổ sung thêm 4 xã điểm nóng của buôn bán người bằng cách lựa chọn có chủ đích. Những điểm
nóng được chọn này là nơi mà theo thông tin sẵn có tại địa phương, tỷ lệ buôn bán trẻ em có thể đặc biệt cao,
do đó được chọn để xác thực các thông tin và giả định hiện có về địa điểm mà buôn bán trẻ em xảy ra. Các
giai đoạn 2 và 3 của quá trình lấy mẫu đã được lặp lại ở các xã điểm nóng, theo đó số mẫu từ các điểm nóng
là 432 bảng hỏi đã hoàn thành.
4 Xem: Phương pháp Kish L. A cho việc chọn lựa chọn chủ thể trả lời từ hộ gia đình. Tạp chí Hiệp hội Thống kê Mỹ. 1949;
44:380‐87.
Tháng 6/2019
13
Tổng thể số mẫu Khảo sát hộ gia đình các thanh thiếu niên là 3.885 bảng hỏi đã hoàn thành. Trong số những
người trẻ tuổi tham gia khảo sát, 2.011 (51,8%) là trẻ em trai/nam thanh niên và 1.874 (48,2%) là trẻ em gái/nữ
thanh niên.
Khảo sát 3: Khảo sát tiếp theo với chủ hộ
Khảo sát thứ ba và là khảo sát cuối cùng thực hiện trong nghiên cứu là ‘khảo sát các chủ hộ’ chọn ra từ mẫu
các hộ gia đình nằm trong Khảo sát hộ gia đình các thanh thiếu niên.
Trong các hộ gia đình này, chủ hộ trả lời một bảng hỏi liên quan đến trẻ em hay thanh thiếu niên của hộ gia
đình đã di cư khi các em chưa đến 18 tuổi và vẫn chưa quay về nhà.
Thông tin bổ sung thu được từ cuộc khảo sát thứ ba này được sử dụng để đảm bảo rằng mức độ/qui mô ước
tính về trẻ em/thanh thiếu niên từng trải nghiệm bị buôn bán đưa ra trong nghiên cứu đã bao gồm số 'nạn
nhân không trở về' trong độ tuổi 12‐24, những người có thể vẫn đang ở nước ngoài hoặc ở Việt Nam nhưng
không phải tại gia đình họ.
Để hoàn thành khảo sát cuối cùng này, 769 hộ gia đình đã được chọn ra từ 3.885 mẫu hộ gia đình đã được
chọn lúc trước. Mẫu phụ này được chọn sử dụng thiết kế hai giai đoạn: Đầu tiên, các xã/phường đô thị được
chọn trong giai đoạn đầu lấy mẫu cho khảo sát hộ gia đình được nhóm theo sáu khu vực5 và phương pháp lấy
mẫu ngẫu nhiên đơn giản được sử dụng để chọn hai xã/phường đô thị từ mỗi khu vực này để quay lại khảo
sát tiếp, theo đó có tổng số 576 hộ được chọn. Sau đó bốn xã điểm nóng từ khảo sát ban đầu cũng được đưa
vào các địa điểm sẽ quay lại khảo sát tiếp, theo đó mẫu bổ sung là 193 hộ gia đình từ các điểm nóng.
Trong giai đoạn thứ hai, bốn khu vực liệt kê ban đầu (được sử dụng ở mỗi xã trong khảo sát hộ gia đình ban
đầu) được chỉ định một thứ tự xếp hạng ngẫu nhiên. Các điều tra viên được yêu cầu quay lại càng nhiều hộ
gia đình trong khu vực liệt kê thứ nhất càng tốt, trước khi chuyển sang khu vực liệt kê thứ hai, và sau đó là thứ
ba, v.v., theo thứ tự xếp hạng, cho đến khi họ đạt tối thiểu 48 hộ gia đình.
5 Các khu vực này dựa trên ba miền địa lý cấp một của Việt Nam (khảo sát lúc trước sử dụng tám khu vực địa lý cấp hai).
Sáu khu vực được tạo ra bằng cách chia tổng số xã/phường trong mỗi miền thành hai nhóm, xã nông thôn và phường
thành thị
THẮP SÁNG HY VỌNG
14
Hình 2: Bản đồ đánh dấu các địa bàn tiến hành thu tập dữ liệu khảo sát hộ gia đình
Tháng 6/2019
15
Ghi chú Hình:
2.3. Hạn chế của nghiên cứu
Nghiên cứu bị ảnh hưởng bởi một số hạn chế. Đáng kể nhất trong số này là khả năng tiếp cận giới hạn tới
những thanh thiếu niên bị buôn bán trở về được hỗ trợ thông qua các Tổ chức Phi chính phủ Quốc tế (INGO)
và các đơn vị tư nhân cung cấp các dịch vụ hỗ trợ khác. Trong khi khu vực tư nhân và các tổ chức tình nguyện
cung cấp một tỷ lệ đáng kể các dịch vụ cho nạn nhân bị buôn bán ở Việt Nam, phần lớn những thanh thiếu
niên được phỏng vấn trong nghiên cứu này được tiếp cận thông qua kênh chính phủ và các cơ quan chức năng.
Những khó khăn này đặc biệt hạn chế khả năng thu thập thông tin về dịch vụ hỗ trợ của các nghiên cứu viên
và việc đạt được mục tiêu nghiên cứu số 3 và 4. Đặc biệt cần lưu ý rằng số liệu được trình bày từ Khảo sát
người thụ hưởng dịch vụ có cỡ mẫu tương đối nhỏ (n = 86) và được chọn có chủ đích từ những người bị buôn
bán trở về.
Ngoài ra, do tính chất nhạy cảm chính trị của chủ đề nghiên cứu, có khả năng một số bằng chứng thu thập
được trong điều tra hộ gia đình và từ các cuộc phỏng vấn định tính bị ảnh hưởng bởi các sai lệch khi báo cáo.
Các thanh thiếu niên tham gia khảo sát có thể không muốn tiết lộ những trải nghiệm liên quan đến di cư bất
hợp pháp và hoạt động tội phạm. Họ cũng có thể từ chối nhận mình là 'nạn nhân' của buôn bán người hoặc
từ chối thừa nhận họ có thể đã bị ép buộc hoặc lừa dối bởi nhà tuyển dụng hoặc kẻ buôn người do e sợ bị kỳ
thị hay bị cho là 'thất bại', thiếu hiểu biết hoặc quá ngây thơ nếu thừa nhận điều này. Điều này có thể đã dẫn
đến các báo cáo không đầy đủ về các trải nghiệm liên quan đến buôn bán người, bị ép buộc hoặc bóc lột trong
khảo sát hộ gia đình, đặc biệt khi liên quan đến các ngành nghề bị kỳ thị cao như ngành công nghiệp tình dục.
Để giảm thiểu những sai lệch khi báo cáo, các nghiên cứu viên đã giải thích cẩn thận mục đích của nghiên cứu
(để cải thiện các hỗ trợ nhằm ngăn chặn nạn buôn bán trẻ em, hoặc giúp trẻ em và thanh thiếu niên phục hồi
sau khi đã bị buôn bán). Các nghiên cứu viên cũng nhấn mạnh sẽ đảm bảo tính ẩn danh và đảm bảo sẽ không
có các hậu quả cá nhân hay từ các cơ quan hữu quan khi họ cởi mở và trung thực chia sẻ thông tin. Các câu
hỏi được hỏi một cách nhạy cảm, được tương tác linh hoạt, có sự tham gia để có thể trao đổi tự nhiên, chân
thật và đảm bảo quá trình trao đổi được dẫn dắt bởi người tham gia.
Cuối cùng, việc dịch thông tin sang tiếng Anh và vai trò của cơ quan nghiên cứu chính với tư cách là ‘người
ngoài’ sẽ có một số tác động đến tính xác thực của dữ liệu được thu thập. Chắc chắn, một số thông tin sẽ bị
mất trong quá trình dịch thuật, đặc biệt là các thông tin phức tạp, chi tiết và mang tính bối cảnh hoặc đặc thù
1. Xã Việt Xuân, Huyện Vĩnh Tường, Tỉnh Vĩnh Phúc 15. Xã Lai Uyên, Huyện Bến Cán, Tỉnh Bình Dương 2. Thôn Đức Xuân, Huyện Bắc Kạn, Tỉnh Bắc Kạn 16. Phường Hoà Thanh, Quận Tân Phú và Xã Vĩnh Lộc A, Huyện Bình Chánh,
Thành phố Hồ Chí Minh
3. Xã Phong Châu, Huyện Trùng Khánh, Tỉnh Cao Bằng 17. Thị trấn Thạnh Phú, Huyện Thạnh Phú, Tỉnh Bến Tre 4. Phường Giang Biên, Quận Long Biên, Hà Nội 18. Xã Tân Hội, Huyện Tân Hiệp, Tỉnh Kiên Giang 5. Phường Hồng Hải, Thành phố Hạ Long và xã Đồng Rui, Huyện
Tiên Yên, Tỉnh Quảng Ninh 19. Xã Long Bình, Huyện An Phú, Tỉnh An Giang
6. Phường Bình Hàn, Thành phố Hải Dương, Tỉnh Hải Dương 20. Thị trấn Thủ Thừa, Huyện Thủ Thừa và Xã Hậu Thạnh Đông, Huyện Tân Thạnh, Tỉnh Long An
7. Xã Quỳnh Hoàng,Huyện Quỳnh Phụ, Tỉnh Thái Bình 21. Xã Suối Dây, Huyện Tân Châu, Tỉnh Tây Ninh 8. Phường Vĩ Dạ, Thành phố Huế, Tỉnh Thừa Thiên Huế 22. Xã Dlie Ya, Huyện Krong Nang, Tỉnh Đắc Lắc 9. Phường Hoà Thuận Đông, Quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng 23. Thị trấn Chư Ty, Huyện Đức Cơ, Tỉnh Gia Lai 10. Xã Bình Thuận, Huyện Tây Sơn, Tỉnh Bình Định 24. Xã Cẩm Nhượng, Huyện Cẩm Xuyên và Xã Kỳ Thư, Huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà
Tĩnh 11. Phường Vĩnh Phước, Thành phố Nha Trang, Tỉnh Khánh Hoà 25. Xã Kim Tân, Huyện Thạch Thành và Xã Hoàng Giang, Huyện Nông Cống,
Tỉnh Thanh Hoá 12. Phường 4, Thành phố Đà Lạt và Xã Madagui, Huyện Đa Huoai,
Tỉnh Lâm Đồng 26. Phường Thái Bình – Thành phố Hoà Bình và Xã Tân Vinh, Huyện Lương Sơn, Tỉnh Hoà Bình
13. Xã Trà Tân, Huyện Đức Linh, Tỉnh Bình Thuận 27. Xã Dào San, Xã Hoang Thèn – Huyện Phong Thổ và Phường Tân Phong, Thành phố Lai Châu, Tỉnh Lai Châu.
14. Phường Tam Hiệp, Thành phố Biên Hoà, Tỉnh Đồng Nai
THẮP SÁNG HY VỌNG
16
văn hóa. Tuy nhiên, các biện pháp đã được đưa ra để ngăn ngừa hạn chế này: trước hết, các phiên dịch và dịch
giả có kỹ năng tiếng Anh tốt, có kiến thức kỹ thuật chuyên môn về tình hình buôn bán trẻ em tại địa phương
đã được lựa chọn. Tương tự, các nhà nghiên cứu định tính ở trung ương với khả năng tiếng Anh tốt, cũng như
đã từng có kinh nghiệm phỏng vấn các nhóm dễ bị tổn thương, đã được chọn để thực hiện các cuộc phỏng
vấn định tính ở cấp tỉnh và địa phương. Thứ ba, các công cụ thu thập dữ liệu định tính đã được phát triển để
định hướng thảo luận. Các nhà nghiên cứu và dịch giả được làm quen trước với các công cụ này. Cuối cùng,
trước khi bắt đầu thu thập dữ liệu chính thức, một nghiên cứu viên từ Coram đã tiến hành thí điểm trong một
ngày để làm quen với quá trình phiên dịch và giải quyết bất kỳ vấn đề hoặc băn khoăn nào nảy sinh.
Tháng 6/2019
17
3. Hướng tới khung khái niệm để xác định và đo lường
buôn bán (trẻ em)
Chương này đề cập đến một số thử thách mang tính lý thuyết gắn với việc xác định và đo lường buôn bán
người, trong bối cảnh lịch sử khi khái niệm pháp lý “buôn bán người” xuất hiện. Những tranh luận và băn
khoăn mang tính lý thuyết này định hình phương pháp tiếp cận cho nghiên cứu đánh giá nạn buôn bán người
trong Khảo sát thanh thiếu niên: khung khái niệm sẽ được làm rõ ở mục 3.2 dưới đây.
3.1. ‘Nạn buôn người’ nổi lên là một vấn đề thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc
tế
‘“Nạn buôn người” nổi lên như một vấn đề được cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm trong những năm 1990
và đầu những năm 2000. Sự quan tâm đối với chủ đề này bùng nổ (trước đây vấn đề này vốn chỉ nhận được
sự quan tâm bên lề6) trước một số áp lực toàn cầu. Những áp lực này làm gia tăng mối lo ngại về di cư qua
biên giới, biên giới quốc gia lỏng lẻo, mối đe dọa về an ninh, toàn vẹn lãnh thổ và kinh tế của các quốc gia.7
Trong những thập kỷ qua, các nỗ lực đặc biệt ở cấp quốc qua, khu vực và quốc tế đã được thực hiện để thiết
lập luật pháp, chính sách, kế hoạch và chương trình mới để giải quyết mối đe doạ liên quốc gia về buôn bán
người. 8 Những nỗ lực này chú trọng vào việc tìm cách giải quyết nạn buôn người thông qua mô hình thực thi
pháp luật và tư pháp hình sự, bắt đầu từ cấp hiệp ước quốc tế 9. Đặc biệt, một động thái mang tính bước ngoặt
vào năm 2000, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua Nghị định thư về Ngăn ngừa, Trấn áp, và Trừng trị
tội phạm Buôn bán người, đặc biệt là Phụ nữ và Trẻ em, thường gọi là ‘Nghị định thư Palermo’. Nghị định
thư được xây dựng như một phần bổ sung cho Công ước Chống Tội phạm Có tổ chức Xuyên Quốc gia, trong
đó có một định nghĩa toàn diện về buôn bán người và các điều khoản bắt buộc liên quan đến vụ án hình sự.
Định nghĩa Buôn bán người trong Nghị định khá chung chung và rườm rà, được xây dựng trong bối cảnh có
nhiều mối bận tậm về các vấn đề như di cư, mại dâm và bạo hành trẻ em.10 Tuy nhiên, Nghị định thư đã nhận
được sự tán thành và ủng hộ rộng rãi từ các quốc gia: 174 trong số 193 quốc gia hiện đang tham gia Nghị định
6 Vào năm 1949, Liên Hợp Quốc đã thông qua Công ước về Ngăn chặn Buôn bán người và Khai thác Mại dâm, công ước này không được nhiều quốc gia phê chuẩn. 7 Anderson, B. (2014). Buôn bán người. In E. Fiddian‐Qasmiyeh, G. Loescher, K. Long, & N. Sigona (Eds.), Sổ tay Oxford – Nghiên cứu về tị nạn và di cư cưỡng bức (pp. 1–15). Sổ tay Oxford Online; Malloch, M., & Rigby, P. (2016). Bối cảnh và sự phức tạp. Trong M. Malloch & P. Rigby (Eds.), Human Trafficking The Complexities of Exploitation (pp. 1–16). Edinburgh University Press. 8 Anderson, B. (2014). Buôn bán người. In E. Fiddian‐Qasmiyeh, G. Loescher, K. Long, & N. Sigona (Eds.), Sổ tay Oxford – Nghiên cứu về tị nạn và di cư cưỡng bức (pp. 1–15). Sổ tay Oxford Online. 9 Lelliott, J. (2017). Buôn lậu và buôn bán Trẻ vị thành niên: Hướng tới phương pháp tiếp cận dựa trên sự bảo vệ và liê kết trong luật pháp quốc tế. Tạp chí quốc tế về luật tị nạn, 29(2), 238–269. https://doi.org/10.1093/ijrl/eex024. 10 Anderson, B. (2014). Buôn bán người. In E. Fiddian‐Qasmiyeh, G. Loescher, K. Long, & N. Sigona (Eds.), Sổ tay Oxford – Nghiên cứu về tị nạn và di cư cưỡng bức (pp. 1–15). Sổ tay Oxford Online.
THẮP SÁNG HY VỌNG
18
thư Palermo. Hơn nữa, 134 quốc gia trong số đó, bao gồm Việt Nam, đã xây dựng các quy phạm pháp luật
trong nước về phòng chống buôn bán người dựa trên các điều khoản trong Hiệp ước năm 2012.11
Định nghĩa ‘buôn bán người’ trong Nghị định thư Palermo
‘"Buôn bán người” là việc tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc tiếp nhận người, bằng cách sử
dụng hoặc đe doạ sử dụng vũ lực hoặc các hình thức ép buộc, bắt cóc, lừa dối, lừa đảo, lạm dụng quyền lực
hoặc lợi dụng tình thế dễ bị tổn thương, hoặc cho/nhận tiền hoặc các lợi ích khác để đạt được sự đồng ý về
việc một người có quyền kiểm soát người khác, vì mục đích bóc lột. Bóc lột, tối thiểu, bao gồm khai thác mại
dâm, hoặc các hình thức khác của bóc lột tình dục, lao động cưỡng bức, nô lệ, hoặc những hình thức tương tự
như nô lệ, hoặc lấy nội tạng’.
________________________________________________________________________________________
Định nghĩa Mua bán người trong pháp luật Việt Nam
Việt Nam đã phê chuẩn Nghị định thư Palermo vào ngày 8 tháng 6 năm 2012.
Trước đó một năm, chính phủ ban hành Luật số 66/2011/QH12 về Phòng chống mua bán người (Luật
PCMBN), trong đó tập trung đặc biệt vào việc hình sự hoá nạn buôn người, nhưng chưa có định nghĩa rõ ràng
về ‘mua bán người’.
Năm 2015, Bộ luật Hình sự được sửa đổi bổ sung thêm Điều 150 để truy tố tội ‘mua bán người’ và Điều 151
để truy tố tội ‘mua bán người dưới 16 tuổi’ (trước đây là ‘Điều 119 và 120’). Bộ Luật Hình sự 2015 có hiệu lực
kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2018.
Tháng 1 năm 2019, Hội đồng Thẩm phán Toà án Nhân dân Tối cao đã ban hành Nghị quyết số: 02/2019/NQ‐
HDTP, giải thích rõ hơn Điều 150 và 151 trong Bộ luật Hình sự 2015 để đảm bảo luật được áp dụng đúng đắn
và nhất quán.
Định nghĩa ‘mua bán (trẻ em)’ trong Luật Việt Nam hẹp hơn so với trong Nghị định thư Palermo vì nó dường
như đòi hỏi phải có sự trao đổi hai chiều, bao gồm ‘chuyển giao và ‘tiếp nhận’ người. Điều này được cho là
không thể bao quát hết tính chất hình sự rộng hơn của việc ‘tuyển mộ’, ‘vận chuyển’ hoặc ‘chứa chấp’ người
được bao gồm trong luật pháp quốc tế. Hơn nữa, tại Việt Nam, ‘mua bán trẻ em’ chỉ áp dụng cho người dưới
16 tuổi, và không bao gồm những người bị buôn bán ở độ tuổi 16 hoặc 17.
Việc áp dụng các luật pháp quốc tế và quốc gia mới đã khiến số lượng các tổ chức làm việc trong lĩnh vực ngăn
chặn và ứng phó với nạn buôn người trên toàn cầu gia tăng nhanh chóng. Một nghiên cứu gần đây ước tính
rằng có ít nhất 1.861 tổ chức phi chính phủ chuyên thực thi các sáng kiến phòng chống buôn bán người, hoạt
động tại 168 quốc gia trên toàn thế giới (Limoncelli, 2016). Buôn bán người đã trở thành một ngành công
11 Limoncelli, S. A. (2016). Các tổ chức phi chính phủ chống buôn bán người đang làm gì? Kết quả từ một nghiên cứu
toàn cầu. Tạp chí về buôn bán người, 2(4), 316–328. https://doi.org/10.1080/23322705.2015.1135605
Tháng 6/2019
19
nghiệp toàn cầu khổng lồ (theo một ước tính năm 2013), tạo ra lợi nhuận hơn 32 tỷ đô la một năm (Davidson,
2013).
Mặc dù có sự nhất trí cao trên toàn cầu về nhu cầu ngăn chặn và ứng phó với nạn buôn bán người, tại nhiều
quốc gia việc ban hành luật hình sự về nô lệ và buôn bán người, năng lực và nguồn lực được huy động cho
những nỗ lực này, những tiến triển trong xác định nạn nhân và truy tố xét xử tội phạm vẫn còn rất hạn chế.
Vẫn còn rất ít thông tin về mức độ và quy mô của nạn buôn người, với những ước tính dao động đáng kể, từ
2.5 triệu – đến 27 triệu nạn nhân trên toàn thế giới. 12
Hơn nữa, số liệu thống kê cho thấy con số phát hiện, điều tra, truy tố và kết án là rất nhỏ so với quy mô của
vấn đề.13 Trong số hàng triệu người hiện được cho là đang sống trong cảnh nô lệ hiện đại trên toàn thế giới,14
chỉ có 100.409 nạn nhân đã được xác định trên toàn cầu trong năm 2017. Hơn nữa, trong số này, chỉ có 17.880
trường hợp bị truy tố, và 7.045 trường hợp bị kết án hình sự.15 Điều này đặt ra câu hỏi về các thách thức trong
xác định và ứng phó với nạn buôn người, cũng như kêu gọi cần có những bằng chứng mạnh mẽ hơn để chứng
minh hoặc bác bỏ các kết luận về bản chất, mức độ và địa bàn của nạn buôn người trên toàn thế giới.
Những thách thức trong đánh giá, xác định và ứng phó với nạn buôn bán người thường được cho là do những
khó khăn khi theo dõi và giám sát những hành vi gian lận và phạm pháp. Mặc dù công tác ứng phó với buôn
bán người chắc chắn bị cản trở bởi các vấn đề liên quan đến tiếp cận và tiết lộ thông tin, các nhà bình luận cho
rằng còn có cả những toan tính và lợi ích chính trị làm phức tạp tình hình, cản trở việc nhận diện và bồi thường
thiệt hại cho nạn nhân bị buôn bán.
3.2. Tìm hiểu về buôn bán người: những tranh luận và thách thức trong định nghĩa
Một trong những căng thẳng chính về mặt chính sách trong công tác phòng chống buôn bán người là sự ràng
buộc định nghĩa di cư với buôn bán người. Nhánh đầu tiên trong định nghĩa buôn bán người trong Nghị định
thư Palermo là một quá trình liên quan đến sự di chuyển một người, thông qua ‘tuyển mộ, vận chuyển, chuyển
giao, chứa chấp hoặc tiếp nhận’. Khía cạnh này của định nghĩa liên quan đến bối cảnh ban đầu khi Nghị định
thư Palermo được xây dựng và nhận được sự đồng thuận: đây là nghị định thư bổ sung cho Công ước của Liên
hợp quốc về Chống Tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, cùng với Nghị định thư chống Buôn lậu Người di
cư bằng đường bộ, đường thuỷ và đường hàng không. Nó phản ánh những lo ngại của các quốc gia về sự gia
tăng di cư bất thường và kiểm soát biên giới. Điều này đưa đến những cuộc tranh luận về vấn đề khi nào và
làm như thế nào để phân biệt giữa buôn bán người, buôn lậu người và di cư trái phép. 16
Thật vậy, với các mối quan tâm mang tính chính trị của các quốc gia trong kiểm soát và hạn chế di cư xuyên
biên giới, trong khi việc hạn chế nghĩa vụ nhân đạo của các quốc gia này đối với người di cư (có thể với số
12 Anderson, B. (2014). Buôn bán người. In E. Fiddian‐Qasmiyeh, G. Loescher, K. Long, & N. Sigona (Eds.), Sổ tay Oxford – Nghiên cứu về tị nạn và di cư cưỡng bức (pp. 1–15). Sổ tay Oxford Online. 13 Báo cáo ILO 2017, (p.53) 14 https://www.ilo.org/wcmsp5/groups/public/@dgreports/@dcomm/documents/publication/wcms_575479.pdf 15 https://www.state.gov/documents/organization/282798.pdf 16 Yeh, S. (2017). Biên tập: Tính chính trị của bằng chứng, dữ liệu và nghiên cứu trong công tác ứng phó với buôn bán
người. Đánh giá công tác ứng phó với buôn bán người, 8, 1‐14.
THẮP SÁNG HY VỌNG
20
lượng khá nhiều) lâm vào cảnh bị bóc lột lao động, việc phân biệt giữa buôn bán người và buôn lậu người là
vấn đề quan trọng và thu hút sự quan tâm đặc biệt. Tuy nhiên, từ góc độ nhân quyền, sự khác biệt không thực
sự rõ ràng, như Anderson viết: ‘nếu vấn đề là mại dâm hoặc lao động cưỡng bức, vậy tại sao phải băn khoăn
về di cư? Tại sao việc bị buộc phải làm mại dâm ở nước ngoài lại tệ hơn ở chính quê nhà?’ Điều này đã gây ra
căng thẳng giữa những người định nghĩa buôn bán trẻ em hẹp hơn: như một quá trình bao gồm việc trao đổi,
chuyển nhượng và tiếp nhận người bất hợp pháp, với những người muốn xem xét rộng hơn, tập trung vào
mục đích cuối cùng của buôn bán người: bóc lột lao động hoặc tình dục (Anderson, 2014)
Hơn nữa, trong thực tế, buôn lậu người và buôn bán người thường biến chuyển linh hoạt và liên quan đến
nhau nên rất khó phân biệt. Phần lớn các báo cáo mô tả những người trở về sau khi bị buôn bán như những
nạn nhân thụ động, bị bắt cóc, tù đày và nô lệ, điều này đã đơn giản hoá những câu chuyện phức tạp về di cư
và bóc lột: với những hành trình, xuất xứ và kết thúc mơ hồ hơn. Điều này có thể đặc biệt đúng trong trường
hợp đối tượng di cư bí mật là trẻ em không có người đi cùng. Trẻ em đặc biệt phụ thuộc vào bên ‘trung gian’
là người trưởng thành giúp các em di chuyển một đoạn đường dài, trốn tránh kiểm soát nhập cư, và tiếp cận
những ‘cơ hội’ lao động; trong khi đó, do sự phụ thuộc tương đối và thiếu kinh nghiệm, các em đặc biệt dễ bị
tổn thương bởi nhiều hình thức bóc lột và lạm dụng trong suốt hành trình của mình, ví dụ như lạm dụng tình
dục, lao động cưỡng bức, và ép buộc tham gia vào các hành vi phạm pháp. 17
Có một số khía cạnh của định nghĩa trong Nghị định thư Palermo cố gắng phân biệt buôn bán người và buôn
lậu người; tuy nhiên, mỗi cách phân biệt khác nhau lại đặt ra những thách thức về mặt định nghĩa. Tiêu chí
phân biệt đầu tiên: yếu tố vận chuyển của buôn bán người không nhất thiết phải diễn ra xuyên biên giới quốc
gia, và bản thân việc di chuyển không nhất thiết phải là bất hợp pháp. Thứ hai, để cấu thành buôn bán người,
mục đích của việc chuyển nhượng phải là bóc lột những người được chuyển giao. Cuối cùng, trong trường hợp
người lớn hơn 18 tuổi (16 tuổi theo luật pháp Việt Nam), việc di chuyển người phải được trợ giúp bởi các biện
pháp ép buộc, lừa đảo hoặc lạm dụng quyền lực để tuyển mộ, vận chuyển và chuyển giao người. Quan trọng
là tiêu chí cuối cùng không áp dụng cho trẻ em (được xác định là bất kỳ ai dưới 18 tuổi theo luật pháp quốc tế,
và 16 tuổi theo luật pháp Việt Nam): nếu trẻ em bị tuyển dụng và vận chuyển nhằm mục đích bóc lột, các em
đã là nạn nhân của nạn buôn người, bất kể các em đã được tuyển dụng bằng phương thức nào.
Tuy nhiên, mỗi giai đoạn – ‘di chuyển’, ‘ép buộc’ và ‘bóc lột’ – đều vừa mơ hồ vừa khó đánh giá trong thực tế.
Thứ nhất, không có ranh giới hay ngưỡng rõ ràng để xác định khi nào giai đoạn ‘di chuyển’ diễn ra. Có thể khó
để phân biệt buôn bán người với các hình thức bóc lột lao động hoặc lạm dụng khác: phân biệt ‘tiến trình’
buôn bán người với giai đoạn cuối là ‘bóc lột’. Thứ hai, liên quan đến yếu tố ‘ép buộc’, ‘lừa đảo’, và ‘lạm dụng
quyền lực’ (đối với người lớn) đặt ra câu hỏi là khi nào thì sức ép hoặc những ràng buộc lao động, làm việc là
hợp pháp và khi nào là vi phạm, và làm thế nào để xác định chính xác khi nào những hình thức lao động khác
nhau là ‘tự do’, ‘tự nguyện’ hoặc ‘ép buộc’. Cuối cùng, định nghĩa ‘bóc lột’ trong Nghị định thư được để mở và
chung chung là ‘tối thiểu’, bao gồm khai thác mại dâm hoặc các hình thức bóc lột tình dục, lao động cưỡng
bức hoặc dịch vụ, nô lệ, hoặc lấy nội tạng’. Đưa ra giới hạn cho bóc lột trong thực thế liên quan đến những
đánh giá mang tính đạo đức và chính trị, không chỉ loại hình công việc nào được coi là hợp pháp và loại công
17 Lelliott, J. (2017). Buôn lậu và buôn bán người nhỏ tuổi không có người đi kèm: Hướng tới một phương pháp tiếp cận mang tính bảo vệ và đồng thuận trong luật quốc tế. Tạp chí quốc tế về luật tị nạn, 29(2), 238–269. https://doi.org/10.1093/ijrl/eex024.
Tháng 6/2019
21
việc nào vốn có bản chất là bóc lột (có thể thấy qua các tranh luận về những sai trái của ‘mại dâm’ và khai thác
tình dục, so với tính hợp pháp của ‘lao động’tình dục); mà còn đánh giá trong trường hợp nào điều kiện làm
việc tồi tệ, lương thấp, và quan hệ lao động phân biệt đẳng cấp được coi là hợp lý (ví dụ như để thu hồi đầu
tư và lợi nhuận một cách hợp lý), và trong trường hợp nào điều kiện làm việc quá tồi tệ, lương quá thấp, với
tỷ lệ vô lý là không chấp nhận được.
Do đó, trên thực tế, xác định và định vị buôn bán người là mơ hồ và còn nhiều tranh cãi. Có thể cho rằng, từng
khía cạnh của buôn bán người – ‘di chuyển’, ‘ép buộc’ và ‘bóc lột’ – được hiểu rõ nhất như một quá trình nối
tiếp, và các dấu hiệu của từng yếu tố trong định nghĩa ‘buôn bán người’ có thể diễn ra ở những giai đọan khác
nhau trong hành trình lao động hoặc di cư của thanh thiếu niên.
3.3. Gợi ý nghiên cứu
Thiếu sự phân biệt rõ ràng giữa thanh thiếu niên di cư với ‘nạn nhân bị buôn bán’ và thiếu những hiểu biết
chuyên sâu về sắc thái và tính phức tạp của những trải nghiệm di cư của từng cá nhân, đặt ra thách thức cho
các nhà nghiên cứu – những người đang thu thập những dữ liệu khách quan, đáng tin cậy, và có thể định lượng
về mức độ phổ biến của buôn bán người và thanh thiếu niên ở quy mô quốc gia hoặc quốc tế. Chương tiếp
theo của bản báo cáo giải thích tại sao các nhà nghiên cứu của Coram Quốc tế dựa trên những phân tích này
đã xây dựng một khung đánh giá buôn bán người linh hoạt hơn trong nghiên cứu khảo sát thông qua phát
triển bộ ‘dấu hiệu’ có thể báo hiệu liệu một trẻ di cư đã có những trải nghiệm liên quan đến buôn bán người
hay không.
Những thách thức, sự mơ hồ và căng thẳng trong việc xây dựng định nghĩa nạn buôn bán người đã chỉ rõ
hướng đi của nghiên cứu này. Điều đó cùng với thông tin đánh giá nạn buôn bán trẻ em trong nghiên cứu khảo
sát, định hình việc phân tích dữ liệu định tính và định lượng thu thập được trong quá trình nghiên cứu. Nghiên
cứu tìm hiểu xem khi nào và bằng cách nào thực tế buôn bán trẻ em và bóc lột và cưỡng bức thanh thiếu niên
Việt Nam trong quá trình di cư, giống hay khác những mô tả trong các ấn phẩm, văn bản và định nghĩa pháp
lý về buôn bán người, cũng như những chương trình ưu tiên của các bên liên quan đang làm việc để ngăn chặn
và giải quyết các tác động tiêu cực của buôn bán người.
THẮP SÁNG HY VỌNG
22
4. Quy mô nạn buôn bán (trẻ em) ở Việt Nam
Chương này miêu tả cách thức đánh giá nạn buôn bán (trẻ em) trong nghiên cứu khảo sát hộ gia đình, và trình
bày một số phát hiện ‘tiêu đề’ về mức độ phổ biến và xu hướng.
Như đã thảo luận ở mục phương pháp nghiên cứu (Chương 2) của báo cáo này, hai khảo sát đã được sử dụng
để đưa ra ước tính về độ phổ biến của nạn buôn bán trẻ em và thanh thiếu niên ở Việt Nam: khảo sát đầu tiên
thực hiện với một nhóm đại diện các thanh thiếu niên tuổi từ 12 đến 24 tại Việt Nam (‘khảo sát hộ gia đình
các thanh thiếu niên’), và khảo sát thứ hai với số mẫu ít hơn được tiến hành với nhóm ‘chủ hộ’ (‘khảo sát chủ
hộ’). Nhận thức buôn người là hiện tượng phức tạp và mơ hồ, và những trải nghiệm liên quan đến buôn bán
trẻ em là một quá trình liên tục, các kháo sát này bao gồm một loạt câu hỏi được thiết kế như một tập hợp
các ‘dấu hiệu’ có thể dùng để đánh giá liệu những thanh thiếu niên này đã từng trải nghiệm những dấu hiệu
của nạn buôn người hay chưa. Những dấu hiệu được chia thành ba nhóm để phán ánh ba nhánh của định
nghĩa ‘buôn bán người’ trong Nghị định thư Palermo (được nêu rõ trong Chương 3): I. ‘di chuyển’; II. ‘lừa đảo,
ép buộc hoặc lạm dụng quyền lực’18; và, III. ‘bóc lột’.
Để phục vụ cho nghiên cứu này, trẻ em được xác định là người dưới 18 tuổi, theo tiêu chuẩn quốc tế.
Nhóm I: Di chuyển
Để đáp ứng yếu tố ‘di chuyển’’ của buôn bán người, những thanh thiếu niên tham gia khảo sát được hỏi liệu
họ đã từng “sống ở một nơi khác, xa nhà, không có cha mẹ/người chăm sóc, vì bất kỳ lí do nào khác ngoài
thú vui giải trí”. Câu hỏi này được thiết kế để ghi nhận được tất cả các hình thức di cư độc lập của thanh thiếu
niên, trong lãnh thổ Việt Nam (di cư nội địa) hoặc ra ngước ngoài (di cư xuyên biên giới). Chỉ những người báo
cáo là đã di cư mà không đi cùng cha mẹ hoặc người chăm sóc được tham gia khảo sát, điều này đảm bảo tất
cả người trả lời phỏng vấn thể hiện một ngưỡng nhất định của ‘tính dễ tổn thương’ liên quan tới nguy cơ họ
bị bóc lột. Theo ‘Lưu ý về Định nghĩa Buôn bán Trẻ em’ của UNICEF:
‘Buôn bán trẻ em diễn ra đặc biệt khi giai đoạn ‘di chuyển’ khiến trẻ em bị tổn thương và trở
nên yếu thế, và sự tổn thương đó đã được tính toán và lên kế hoạch để bóc lột các trẻ. Trẻ em
có thể bị tổn thương vì các em không có người thân tại nơi đó, không có tiền hoặc phương tiện
để về nhà, không biết ngôn ngữ tại nơi đó, bị thiệt thòi do tình trạng pháp lý, bị thiếu thốn
những dịch vụ cơ bản (ví dụ như giáo dục và chăm sóc sức khoẻ), hoặc không biết rõ môi
trường sống.’ 19
18 Như đã được ban hành trước đó, đối với những người dưới 18 tuổi, các tiêu chí ‘lừa đảo, cưỡng bức hoặc lạm quyền’ không liên quan đến câu hỏi liệu trẻ em có bị buôn bán hay không: các tiêu chí được tự động đáp ứng. Tuy nhiên, phương pháp được dùng trong nghiên cứu này được thiết kế để tìm hiểu khía cạnh này của nạn buôn bán trẻ em vì điều này cung cấp bằng chứng quan trọng cho phương thức buôn bán trẻ em. 19 https://www.unicef.org/southafrica/SAF_pressrelease_notetrafficking.pdf
Tháng 6/2019
23
Để thu thập thêm thông tin về bản chất của việc di cư này, thanh thiếu niên được hỏi về tuổi khi khi ra đi và
mục đích di cư (ví dụ như đi học, đi làm, kết hôn), liệu họ có di chuyển xuyên biên giới, liệu sau khi di cư họ
phải làm việc gì và ngành nghề gì.
Nhóm II. Lừa đảo, ép buộc hoặc lạm dụng quyền lực
Một số câu hỏi liên quan đến nhánh thứ hai trong định nghĩa ‘buôn bán người’ trong Nghị định thư Palermo,
‘lừa đảo, cưỡng ép hoặc lạm dụng quyền lực’ đã được đưa vào khảo sát. Những câu hỏi này dành cho thanh
thiếu niên bao gồm: ai quyết định cho họ di cư, ai là người chịu trách nhiệm tạo điều kiện và sắp xếp chuyến
đi của họ, họ có được an toàn ở điểm đến và suốt cuộc hành trình không, liệu họ đã bao giờ được phép liên
lạc với gia đình chưa, và (nếu họ đi làm) liệu họ có được trả mức lương như đã thoả thuận từ đầu hay không.
Nhóm III. Bóc lột
Cuối cùng, nhánh thứ ba ‐ ‘bóc lột’, các dấu hiệu đã đúc kết ra định nghĩa của các hình thức bóc lột (lao động
và tình dục) trong luật pháp và tiêu chuẩn nhân quyền trong nước và quốc tế. (Khi định nghĩa trong nước và
quốc tế không phù hợp, các nhà nghiên cứu đã chọn ra một tiêu chuẩn có tính bảo vệ và/hoặc rõ ràng nhất).
Thanh thiếu niên đã di cư được hỏi một loạt câu hỏi liên quan đến trải nghiệm của họ về ‘công việc’ tại điểm
đến, ví dụ như liệu họ có hoạt động mại dâm hoặc những hình thức bóc lột nào khác không, họ làm việc bao
nhiêu tiếng một ngày và một tuần, và họ được trả công bao nhiêu.
4.1. Tính toán mức độ phổ biến của ‘các chỉ số buôn bán’
Tất cả những người tham gia vào khảo sát thanh thiếu niên dưới 18 tuổi di cư độc lập, và thanh thiếu niên có
báo cáo trải nghiệm bị cưỡng bức hoặc bóc lột trong quá trình di cư, được coi như đã có trải nghiệm giống với
hoặc chính là buôn bán trẻ em. (Từ sau đây, ‘ICTs’ được dùng như từ viết tắt của ‘Dấu hiệu của nạn buôn bán
trẻ em’) khi miêu tả trải nghiệm của những người trên 18 tuổi khi di cư, kể cả khi họ trình báo đã bị cưỡng bức
và bóc lột trong thời gian di cư, cụm từ ‘buôn bán người’ được tránh sử dụng. Điều này phản ánh một thực tế
là luật pháp thường yêu cầu tiêu chuẩn cao hơn cho những bằng chứng để làm rõ việc buôn bán người trên
18 tuổi. Những người di cư trên 18 tuổi được mô tả là những thanh thiếu niên đã có trải nghiệm giống với
hoặc chính là bị cưỡng bức hoặc bị bóc lột trong hoàn cảnh di cư. (Từ sau đây, ‘IFEMs’ được dùng như từ
viết tắt của ‘Dấu hiệu bị cưỡng bức và bóc lột trong hoàn cảnh di cư’)
Liệt kê những dấu hiệu/chỉ số của buôn bán/cưỡng bức/bóc lột trẻ em:
Những người được hỏi được xác định là đã có trải nhiệm giống hoặc chính là bị buôn bán trẻ em (ICTs) NẾU:
Người được hỏi di cư độc lập khi ít hơn 18 tuổi VÀ làm việc trong ngành công nghiệp tình dục;
HOẶC
Người được hỏi di cư độc lập khi ít hơn 18 tuổi VÀ làm việc nhiều hơn 8 tiếng một ngày hoặc nhiều
hơn 40 giờ một tuần (bị cấm theo Luật Lao động, Việt Nam);
HOẶC
Người được hỏi di cư độc lập khi ít hơn 15 tuổi VÀ làm việc nhiều hơn 4 tiếng một ngày và nhiều hơn
20 tiếng một tuần (bị cấm theo Luật Lao động, Việt Nam);
THẮP SÁNG HY VỌNG
24
HOẶC
Người được hỏi di cư độc lập khi ít hơn 18 tuổi VÀ đang làm việc tại điểm đến VÀ không được trả công
theo thoả thuận ban đầu;
HOẶC
Người được hỏi di cư độc lập khi ít hơn 18 tuổi VÀ họ được trả ít hơn mức lương hợp pháp tối thiểu
được quy định trong Luật Lao động Việt Nam;
HOẶC
Người được hỏi di cư độc lập khi ít hơn 18 tuổi VÀ họ di cư với mục đích đi làm hoặc hôn nhân hoặc
vì cha mẹ họ không thể chăm sóc cho họ, VÀ đó không phải là quyết định của họ khi dời đi VÀ họ không
tự sắp xếp hành trình của họ;
HOẶC
Người được hỏi di cư độc lập khi ít hơn 18 tuổi VÀ đánh giá dưới 5 điểm cho sự an toàn của họ tại
điểm đến (thang điểm 1‐9);
HOẶC
Người được hỏi di cư độc lập khi ít hơn 18 tuổi VÀ chưa từng được liên lạc với bạn bè và gia đình một
lần nào tại điểm đến;
HOẶC
Người được hỏi di cư độc lập khi ít hơn 18 tuổi VÀ cho biết họ đã quay trở lại sau khi được ‘giải cứu’;
HOẶC
Trẻ em thoả mãn các điều kiện để trở thành nạn nhân của nạn bóc lột lao động* VÀ chủ gia đình không
phải là cha mẹ/ông bà/người thân của họ VÀ họ không phải là chủ gia đình;
HOẶC
Người được hỏi di cư độc lập khi ít hơn 18 tuổi VÀ một người lạ đã sắp xếp chuyến đi của họ VÀ họ là
một người làm thuê trong hộ gia đình họ đang sinh sống cùng;
HOẶC
Trẻ em thoả mãn các điều kiện để trở thành nạn nhân của nạn bóc lột lao động* VÀ hiện là người di
cư (không trở về nhà).
*Người được hỏi được xác định là ‘nạn nhân trẻ em của nạn bóc lột lao động’ NẾU:
Người được hỏi dưới 13 tuổi VÀ làm việc vì tiền/thu nhập (bị cấm theo Luật Lao động, Việt Nam);
Tháng 6/2019
25
HOẶC
Người được hỏi dưới 15 tuổi VÀ làm việc vì tiền trong hơn 20 tiếng một tuần (bị cấm theo luật Lao
động, Việt Nam);
HOẶC
Người được hỏi dưới 15 tuổi VÀ không đi học thường xuyên (3 ngày hoặc ít hơn một tuần) VÀ cho
biết vai trò chính của họ trong gia đình là người kiếm tiền;
HOẶC
Người được hỏi dưới 18 tuổi VÀ làm việc vì tiền trong hơn 40 tiếng một tuần (bị cấm theo Luật Lao
động Việt Nam);
HOẶC
Người được hỏi dưới 18 tuổi VÀ được trả công ít hơn mức lương hợp pháp tối tiểu (theo quy định
của Luật Lao động Việt Nam)
HOẶC
Người được hỏi dưới 15 tuổi VÀ làm việc nội trợ hơn 3 tiếng một ngày;
HOẶC
Người được hỏi dưới 18 tuổi VÀ làm việc nội trợ hơn 4 tiếng một ngày;
HOẶC
Người được hỏi dưới 18 tuổi VÀ đi học toàn thời gian (ít nhất 5 ngày một tuần), VÀ làm việc nội trợ
hơn 3 tiếng mỗi ngày;
HOẶC
Người được hỏi dưới 13 tuổi VÀ chịu trách nhiêm chăm sóc người già và trẻ em.
Người được hỏi được xác định là thanh thiếu niên đã có trải nghiệm giống với hoặc chính là cưỡng bức hoặc
bóc lột trong hoàn cảnh di cư (IFEMs) NẾU:
Người được hỏi hơn 17 tuổi, di cư độc lập VÀ di cư trái ý muốn của họ;
HOẶC
Người được hỏi hơn 17 tuổi, di cư độc lập VÀ không được trả công theo mức lương thoả thuận ban
đầu;
HOẶC
Người được hỏi hơn 17 tuổi, di cư độc lập VÀ không được cho phép liên hệ với gia đình;
HOẶC
Người được hỏi hơn 17 tuổi, di cư độc lập VÀ cho biết họ đã quay trở lại sau khi được “giải cứu”;
THẮP SÁNG HY VỌNG
26
HOẶC
Người được hỏi hơn 17 tuổi, di cư độc lập VÀ được trả công ít hơn mưc lương hợp pháp tối thiểu
(được quy định trong Luật Lao động Việt Nam).
Mức độ phố biến của các dấu hiệu của nạn buôn bán (trẻ em) và bóc lột (lao động) trong hoàn cảnh di cư:
Kết quả từ khảo sát hộ gia đình thanh thiếu niên20 .
2,8% số người được hỏi trong khảo sát hộ gia đình thanh thiếu niên được ước tính là đã từng có
trải nghiệm giống với hoặc chính là nạn buôn người (ICTs);
3,1% số người được hỏi trong khảo sát hộ gia đình thanh thiếu niên được ước tính là trẻ em bị bóc
lột lao động (bóc lột lao động mà không phải di cư hoặc ‘di chuyển’);
7,9% số người được hỏi trong khảo sát hộ gia đình thanh thiếu niên được ước tính là đã từng có
trải nghiệm giống với cưỡng bức hoặc bóc lột trong hoàn cảnh di cư (IFEMs).
20 Những người được hỏi từ 4 địa điểm không được chọn ngẫu nhiên đã bị loại khỏi bước phân tích khi ước tính mức độ phổ biến chung.
Tháng 6/2019
27
Biểu đồ 1: Chỉ số/dấu hiệu buôn bán/cưỡng ép/bóc lột trẻ em trong khảo sát hộ gia đình thanh
thiếu niên
Cuối cùng, để ước tính mức độ phổ biến của nạn buôn bán trẻ em, những kết quả này được kết hợp với những
dữ liệu từ khảo sát chủ hộ (khảo sát này hỏi về các thành viên của các gia đình đã di cư và không quay trở lại).
Việc này để đảm bảo những nạn nhân tiềm năng của nạn buôn người chưa trở về Việt Nam, và/hoặc không
sống trong môi trường gia đình, cũng được ghi nhận trong tỷ lệ phổ biến ước tính.
Thông tin thu được từ khảo sát hộ gia đình và khảo sát chủ hộ được tổng hợp theo phương trình dưới dây để
ước tính tỷ lệ phổ biến.
Những người tham gia khảo sát hộ gia đình tại ‘điểm nóng’ đã bị loại khỏi phân tích khi ước tính mức độ
phố biến, vì những địa điểm này được chọn có chủ đích (không ngẫu nhiên).
2.8%3.1%
7.9%
0.0%
1.0%
2.0%
3.0%
4.0%
5.0%
6.0%
7.0%
8.0%
9.0%
Chỉ số buôn bán trẻ em Chỉ số bóc lột lao động trẻ em Chỉ số cưỡng bức hoặc bóc lột trong quá trình di cư
% than
h thiếu niên cho biết về các trải n
ghiệm
THẮP SÁNG HY VỌNG
28
Hình 3: Phương trình được dùng để ước tình mức độ phổ biến của nạn buôn bán trẻ em
% số người được hỏi đã trở về và có ICTs được xác định trong toàn bộ nhóm mẫu của khảo sát hộ gia đinh ban đầu21
X Trung bình số thành viên hộ gia đình người dưới 18 tuổi
+
Trung bình số những người có ICTs không trở về tại mỗi hộ gia đình22
Trung bình số thành viên hộ gia đình dưới 18 tuổi
+
Trung bình số dân di cư dưới 18 tuổi và không quay trở lại tại mỗi hộ gia đình23
4.2. Tổng ước tính mức độ phổ biến của trẻ có chỉ số buôn bán trẻ em
Tổng ước tính mức độ phổ biến của buôn bán trẻ em ở Việt Nam
Dựa trên những tính toán này, nhóm nghiên cứu Coram ước tính tổng cộng 5.6% số trẻ em ở Việt Nam có thể
đã trải qua những hoàn cảnh có dấu hiệu buôn bán trẻ em hoặc chính xác là đã từng bị buôn bán.
Dựa trên những tính toán này, Tổ chức Coram đã ước tính tổng cộng 5,6% số trẻ em Việt Nam có thể đã trải
qua những hoàn cảnh có dấu hiệu của nạn buôn bán trẻ em hoặc chính xác là đã từng bị buôn bán. Ước tính
này có vẻ cao, đặc biệt là theo số liệu chính thức của cảnh sát về số trẻ em được xác định và công nhận là nạn
nhân của buôn bán người ở Việt Nam. Thật vậy, trong trường hợp không có thêm thông tin chi tiết và bối cảnh
riêng của từng hành trình ‘di cư’ của từng em, cũng như trải nghiệm về bóc lột của họ, không thể nói rằng từng
em trong nhóm này đều chính thức ‘đủ điều kiện’ và thoả mãn định nghĩa của ‘buôn bán người’. Tuy nhiên,
phương pháp này cố nhấn mạnh rằng một nhóm thiểu số quan trọng (có lẽ là 1 trong số 18) trẻ em Việt Nam
21 Tỷ lệ người được hỏi dưới 18 tuổi trong toàn bộ khảo sát hộ gia đình ban đầu là nạn nhân trẻ em là 0.0231 (i.e. 2,31%). 22 Dữ liệu khảo sát hộ gia đình được sử dụng để tính toán tỷ lệ phần trăm những người đầu tiên di cư dưới 18 tuổi có dấu
hiệu bị buôn bán. Sau đó, con số này được nhân với tổng số người không di cư dưới 18 tuổi được báo cáo bởi chủ hộ (là
26: 10 gái và 16 trai), và chia cho 576 (số hộ trong cuộc khảo sát tiếp theo ‐ trừ đi các điểm nóng) để có được số lượng
dấu hiệu bị buôn bán không trả lại trung bình ước tính cho mỗi hộ gia đình. 23 Đây là tính toán những người di cư dưới 18 được báo cáo bởi các chủ hộ gia đình, 26 người, chia cho tổng số 576 trong khảo sát tiếp theo hộ gia đình. Kết quả đưa ra là trung bình/hộ có 0.044065 người di cư dưới 18 tuổi không trở về.
Tháng 6/2019
29
đã nếm trải bị ép buộc hoặc bị bóc lột trong khi di cư – những hành vi tương tự hoặc trùng với hành vi của
buôn bán người.
THẮP SÁNG HY VỌNG
30
Hình 4: Ước tính mức độ phổ biến của trẻ em đã có dấu hiệu bị buôn bán
Trẻ em ở Việt Nam có trải nghiệm tương tự hoặc chính là bị buôn bán trẻ em
Tháng 6/2019
31
4.2.1. Mức độ phổ biến của các dấu hiệu buôn bán trẻ em: các hình thái cơ bản và xu thế
Buôn bán qua biên giới và trong nội địa
Nhóm đa số áp đảo, 92,3%, số thanh thiếu niên có dấu hiệu bị buôn bán trẻ em (và 84,4% số thanh thiếu niên
có dấu hiệu bị cưỡng bức và bóc lột khi di cư) được báo cáo là đã bị buôn bán trong nước (từ một địa điểm
này đến một địa điểm khác trong Việt Nam). Mặt khác, theo ước tính của nghiên cứu này, buôn bán trẻ em
xuyên biên giới dường như là một hiện tượng tương đối hiếm, với mức độ phổ biến chỉ 0.4%. Mặc dù quy mô
của vấn đề là vậy song các kết quả nghiên cứu lại chỉ ra rằng những trường hợp buôn bán người trong nước ít
có khả năng được xác định hoặc chính thức được công nhận bới các nhà chức trách. Sự khác biệt này, vốn đã
được ghi nhận trong Báo cáo tình hình Buôn Bán Người của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ năm 201924, sẽ tiếp tục
được làm rõ xuyên suốt báo cáo nghiên cứu này.
Dữ liệu chỉ ra rằng trẻ em và thanh thiếu niên bị buôn bán đến đa dạng các quốc gia, nhưng tập trung theo
khu vực. Các trường hợp di cư có dấu hiện buôn bán trẻ em được trình báo ở Campuchia, Trung Quốc,
Indonesia và Singapore, và các trường hợp khi thanh thiếu niên trình báo đã bị cưỡng bức và bóc lột trong quá
trình di cư được xác định ở Angola, Campuchia, Trung Quốc, Indonesia, Nhật Bản, Na Uy, Nga, Saudi Arabia,
Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, và Thái Lan.
Các quốc gia khác nơi thanh thiếu niên được trình báo đi di cư độc lập, trong khảo sát hộ gia đình,
gồm Úc, Canada, Malaysia, và Hoa Kỳ.
Sự phân bố các dấu hiệu của buôn bán trẻ em theo vị trí địa lý
Trẻ em bị buôn bán được tìm thấy ở tất cả các vùng của đất nước, với mật độ đặc biệt cao ở các tỉnh miền
Trung và miền Nam. Các báo cáo liên quan đến buôn bán trẻ em đặc biệt nhiều ở vùng sâu vùng xa, và những
vùng kinh thế yếu kém của đất nước (p < 0.05). Thoạt nhìn, sự phân bố các dấu hiệu của nạn buôn bán người
theo vị trí địa lý dường như mâu thuẫn với thông tin về mức độ buôn bán người ở miền Bắc và đặc biệt là
xuyên biên giới Việt Nam – Trung Quốc, vấn đề này được đặt ra với những người tham gia vào xác minh kết
quả nghiên cứu bước đầu. Tuy nhiên, thực tế là phần lớn những dấu hiệu được xác định trên cả nước là buôn
bán người trong nước. Kết quả này không hẳn là mâu thuẫn với nhận thức chi phối; nó có thể do các trường
hợp buôn bán qua biên giới tương đối phổ biến ở các tỉnh miền Bắc, trong khi buôn bán trong nước xảy ra ít
hơn ở miền Bắc so với các khu vực khác của đất nước.
24 Văn phòng Giám sát và Chống lại nạn Buôn bán người, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ‘Báo cáo tình hình Buôn bán người
2019: Việt Nam’, https://vn.usembassy.gov/2019‐trafficking‐persons‐report/.
THẮP SÁNG HY VỌNG
32
Biểu đồ 2: Mức độ phổ biến các trường hợp di cư có dấu hiệu của buôn bán trẻ em theo tỉnh
Mức độ phổ biến của ICTs tại các ‘điểm nóng’
Trẻ em trong 4 xã/phường nơi được các cơ quan chính quyền xác định là ‘điểm nóng’ của nạn buôn người (và
được chọn để đưa vào khảo sát), có nguy cơ xảy ra buôn bán trẻ em gần như gấp hai lần so với các xã được
chọn ngẫu nhiên (p < 0.005). Tỷ lệ phổ biến của nạn buôn người ở những khu vực nóng lên tới 10,5%, nghĩa là
cứ 10 đứa trẻ thì có 1 em trong tụ điểm của nạn buôn người đã từng trải nghiệm bị buôn bán. Phát hiện này
chỉ ra rằng nhận thức của các bên liên quan về địa điểm mà nạn buôn người có thể diễn ra thực sự có cơ sở.
Hơn nữa, trẻ em tại các điểm nóng có khả năng cao sẽ trình báo về nạn buôn người qua biên giới, với tỷ lệ 1:5
(20,8%) số người tham gia khảo sát có dấu hiệu của nạn buôn bán trẻ em tại các tụ điểm nóng trình báo đã di
cư ra nước ngoài. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên vì cả bốn điểm nóng được chọn đều gần biên giới đất
liền của Việt Nam và nó phản ánh thực trạng rằng buôn bán người xuyên biên giới nhận được nhiều chú ý và
quan tâm từ chính quyền và các bên liên quan, so với các loại hình buôn bán người trong nội địa (ý nghĩa của
việc này sẽ được nhắc đến rõ hơn tại Chương 7 của bản báo cáo này. Chương 7 cũng sẽ giải đáp những câu
hỏi liên quan đến ‘việc công nhận’ buôn bán người và những nạn nhân bị buôn bán trở về).
4.9%
2.3% 2.4%
9.9% 9.9%
1.6%
2.6%
9.1%
0.0%
2.0%
4.0%
6.0%
8.0%
10.0%
12.0%
Tây Bắc Đông Bắc ĐBSH Bắc TB Nam TB Tây Nguyên Đông Nam Bộ
ĐBSCL
% phổ biến của các ca có dấu hiệu buôn bán
trẻ em
Tháng 6/2019
33
Giới tính và ICTs
Trải nghiệm liên quan đến nạn buôn bán trẻ em được phát hiện là có ảnh hưởng đến cả bé trai và bé
gái. Dữ liệu khảo sát chỉ ra rằng tỷ lệ bé trai có trải nghiệm liên quan đến nạn buôn bán trẻ em (6,8%)
nhỉnh hơn so với tỷ lệ đó của bé gái (4,5%). Điều đó có thể phản ánh thực tế là nhiều bé trai trải
nghiệm di cư độc lập hơn bé gái (chi‐square, p<.1). Tuy nhiên, Bằng chứng từ nghiên cứu có cho thấy
sự khác sự khác biệt về tỷ lệ giới tính trong báo cáo về buôn bán trẻ em trong khảo sát hộ gia đình
thanh thiếu niên quá nhỏ và không có ý nghĩa thống kê.biệt giữa trải nghiệm của nữ và nam về nạn
buôn người và quá trình tái hoà nhập, tuy nhiên, điều này sẽ được trình bày sâu hơn ở những chương
sau.
Biểu đồ 3: Tỷ lệ buôn bán người theo giới tính
Những phát hiện ở trên cho thấy rằng nạn buôn bán trẻ em không phải là hiện tượng biệt lập tại Việt Nam. Nó
ảnh hưởng đến trẻ em trên toàn quốc, mặc dù trẻ em vùng sâu vùng xa và nông thôn đặc biệt có nguy cơ cao
hơn. Các kết quả này cũng cho thấy những trường hợp buôn bán trẻ em được biết đến khó có thể phản ánh
đúng thực trạng trải nghiệm của trẻ em về nạn buôn người tại Việt Nam. Chương tiếp theo sẽ phân tích những
động lực này rõ hơn, tìm hiểu sâu hơn những xu hướng nhân khẩu học và hộ gia đình liên quan đến các dấu
hiệu của nạn buôn người và bóc lột, dựa trên dữ liệu từ các khảo sát hộ gia đình. Các kết quả được đưa vào
một cuộc thảo luận rộng hơn với chủ đề nạn buôn bán trẻ em diễn ra như thế nào trên thực tế: các phương
tiện và phương thức khiến những trẻ em và thanh thiếu niên yếu thế bị ‘tuyển dụng’ để bóc lột và trở thành
nạn nhân (tiềm năng) của nạn buôn người.
0.00%
1.00%
2.00%
3.00%
4.00%
5.00%
6.00%
7.00%
8.00%
Mức độ phổ biến của CTIs
Nam Nữ
THẮP SÁNG HY VỌNG
34
5. Phương thức tuyển mộ: Buôn bán người xảy ra như thế
nào
Phần lớn các tài liệu về buôn bán người đều đề cập đến các yếu tố thống trị điều khiển buôn bán người cũng
như các nhân tố dễ bị tổn thương khiến một người bị đưa vào trong các hoàn cảnh có nguy cơ đặc biệt. Trong
khi có những điều kiện và đặc điểm đương nhiên– đáng chú ý nhất là đói nghèo – khiến người đó dễ bị tổn
thương với mọi hình thức buôn bán thì hoàn cảnh, điều kiện cá nhân và con đường dẫn tới bị buôn bán rất đa
dạng và phức tạp. Chương này sẽ tiếp tục đưa ra các lý giải để giúp hiểu biết sâu hơn tại sao trẻ bị buôn bán
và bị buôn bán như thế nào. Nó cũng sẽ xem xét khi nào buôn bán người xảy ra và xảy ra như thế nào, đâu là
nhóm trẻ dễ có nguy cơ bị buôn bán nhất, tìm hiểu mức độ tác động mà trẻ đã phải trải qua trong suốt thời kì
bị buôn bán.
5.1. Mầm mống bị buôn bán: Lời hứa (giả dối) về các cơ hội
Hỏi. Đặc điểm chung nhất của những trẻ em bị buôn bán ở tại trung tâm của anh/chị là gì?
Các em bị buôn bán từ khi tuổi còn khá nhỏ ‐ các em không có công việc ổn định. Trường hợp thứ nhất là các
em được hứa hẹn về một công việc nhàn hạ, lương cao. Trường hợp thứ hai là bị chính bạn trai của lừa gạt,
chủ yếu là qua mạng internet...
– Cán bộ xã hội25
Phần lớn các báo cáo về nạn buôn bán trẻ em đều có xu hướng xây dựng nạn nhân là nhân vật thụ động, viện
dẫn các câu chuyện mà trong đó trẻ em bị bắt cóc, chiếm đoạt hoặc bị cưỡng ép mang đi.26 Một nhà phê bình
đã quan sát thấy ‘buôn bán người thường bị đóng khung là hậu quả của sự di chuyển không tình nguyện của
nạn nhân, với những câu chuyện về phụ nữ [và trẻ em] bị lừa gạt hoặc bắt cóc trái với ý muốn của họ’27. Bằng
chứng về việc buôn bán người xảy ra trên thực tế như thế nào chỉ ra rằng mặc dù kịch bản như trên có diễn ra
song không nhiều. Các kết quả nghiên cứu định tính và định lượng đều cho thấy phần lớn các vụ việc nạn nhân
đều không bị các đối tượng tuyển mộ cưỡng ép đưa đi mà ban đầu là người chủ động đưa ra quyết định di cư
để tìm cơ hội thay đổi cuộc sống và trở thành nạn nhân bị bóc lột trong quá trình thực hiện mong muốn này,
thường là do tính dễ bị tổn thương của họ. Thực vậy, trong tổng số những trẻ tham gia khảo sát có dấu hiệu
bị buôn bán, chỉ 13% (1 trong 8 trẻ) cho biết ‘bị đưa đi trái với ý muốn’.
Người tham gia khảo sát kể lại nhiều cách thức khác nhau mà đối tượng buôn người dùng để tuyển mộ trẻ em
và thanh thiếu niên,28 phần lớn trong số này liên quan đến những lời hứa (thường là giả dối) về thu nhập, công
việc và, trong một chừng mừng ít hơn, là những cơ hội học hành và đào tạo. Thực vậy, hơn một nửa (50.3%)
số trẻ được hỏi có dấu hiệu bị buôn bán cho biết lí do chính khiến các em rời nhà ra đi là để tìm kiếm cơ hội
25 Phỏng vấn riêng, Cán bộ Nhà Nhân Ái, Lào Cai 28/11/2017 26 Xem thêm, Davidson, J., Câu chuyện được kể: Di cư, Buôn bán, Lạm dụng và Bỏ mặc Trẻ em, 37, 2013. 27 Vijeyarasa, R. (2013). Kì thị, khuôn mẫu và phim dài tập Brazil: rào chắn để chấm dứt nạn buôn bán người ở Việt Nam, Ghana và Ukraine. Giới, Địa điểm và Văn hoá, 20(8), 1015–1032. https://doi.org/10.1080/0966369X.2012.759905 28 Hoặc trẻ em được tuyển mộ vào những gì trở thành tình huống buôn bán người.
Tháng 6/2019
35
việc làm và thu nhập, trong khi 23.7% nói rằng lí do chính để các em ra đi là vì học hành. Kết quả này càng
được củng cố thông qua các câu chuyện tình huống trong nghiên cứu định tính. Mặc dù trong phần lớn các
trường hợp, lí do dư cư ban đầu khá đa dạng song đều hướng tới mục tiêu tìm kiếm thu nhập hoặc cải thiện
đời sống kinh tế. Ví dụ, một phụ nữ bị buôn bán sang Trung Quốc từ khi còn là một đứa trẻ nói với nhóm
nghiên cứu rằng: “Tôi muốn kiếm tiền để phụ giúp gia đình…họ nói rằng tôi có thể kiếm tiền”.29 Một phụ nữ
trẻ khác bị làm việc trong các điều kiện bị bóc lột tại xưởng may từ lúc còn là trẻ em cho biết thêm:
“Tôi đã phải rất chăm chỉ để vừa làm vừa có thể đi học nhưng đã phải bỏ học sau khi hết lớp
7. Cha mẹ bảo tôi lên Sài Gòn làm việc và học nghề. Ước mơ của tôi là có một tiệm may của
riêng mình.”30
Trong nhiều trường hợp, nạn nhân cho biết họ bị các đối tượng tuyển mộ lừa gạt, đưa ra những thông tin dối
trá về lương, điều kiện làm việc, thậm chí là mục đích của tuyển dụng và địa bàn làm việc. Một nam thanh niên
bị buôn bán vào làm việc trong hầm mỏ từ lúc 14 tuổi đã chia sẻ với nhóm nghiên cứu:
“Người tuyển dụng nói với tôi rằng chúng tôi sẽ đi Quảng Nam để làm việc trong một xưởng
mộc hoặc trồng tràm – ông ta không nói bất cứ gì về việc làm mỏ…Họ đã lừa chúng tôi như
thế đó. [Những nạn nhân khác] đã nghĩ rằng chúng tôi chỉ đi làm tầm 1‐2 tháng và nếu chúng
tôi muốn nghỉ việc thì họ sẽ cho chúng tôi về!”31
Tương tự, khi trao đổi buôn bán người xảy ra như thế nào ở Việt Nam, các bên có liên quan đều nhất trí cho
rằng đối tượng buôn người có thể đã lừa hoặc nói dối nạn nhân với lời hứa hẹn lương cao, điều kiện làm việc
thuận lợi. Gần một nửa (44.2%) trong số những người có dấu hiệu bị buôn bán trẻ em tham gia khảo sát hộ
gia đình cho biết họ đã không được trả lương đúng như đã thoả thuận từ đầu.
Trong một số trường hợp khác, nạn nhân chỉ đơn giản là đã không thoả thuận hoặc đồng ý về các điều khoản,
chỉ dựa vào mô tả công việc mà sau đó dần dần trở thành tình trạng bị bóc lột hoặc cưỡng ép lao động nặng
nề. Một cán bộ quản lý ca nhớ lại về trường hợp một nạn nhân mà cô đã trợ giúp:
“Vì vậy cô ấy đi xung quanh hỏi han mọi người để tìm việc và sau đó có người tìm đến và đưa
ra lời đề nghị. Vài hôm sau, [mọi việc] được thoả thuận và [cô ấy] được đưa lên Hà Nội. Gia
đình chỉ liên lạc được với cô ấy hai lần sau đó thì hoàn toàn mất liên lạc…”32
Mặc dù một vài kết quả từ nghiên cứu định tính có phát hiện ra những trường hợp trẻ em bị bắt cóc, bị tuyển
mộ ép buộc hoặc bị bán thì nhìn chung, các bằng chứng đều chỉ ra rằng phần lớn các vụ trẻ em hoặc thanh
thiếu niên rơi vào hoàn cảnh bị buôn bán là sau khi, hoặc trong quá trình, quyết định di cư.
29 Phỏng vấn riêng, nạn nhân bị buôn bán, Lào Cai 29/11/201 7 30 Phỏng vấn riêng, nạn nhân bị buôn bán, Huế 08/10/2017 31 Phỏng vấn riêng, xã viên và là nạn nhân bị buôn bán trong nước, Huế 12/12/2018 32 Phỏng vấn riêng, Cán bộ quản lý ca của một tổ chức Phi chính phủ, Hà Nội 03/10/2017
THẮP SÁNG HY VỌNG
36
5.2. Quá trình tuyển mộ
Kết quả nghiên cứu cho thấy nạn nhân thường được tuyển mộ bởi người lạ hoặc người quen bình thường –
những người biết lợi dụng vào điểm yếu của người đang đi tìm kiếm cơ hội thu nhập. Một cán bộ quản lý ca
làm việc với nạn nhân bị buôn bán ở Hà Nội cho biết thêm:
“Nhiều trường hợp nạn nhân bị buôn bán bởi những thủ đoạn rất đơn giản. Họ đi tìm việc ở
những khu công nghiệp nằm ở ngoại ô Hà Nội. Trong thời gian chờ câu trả lời, họ đi lang thang
trong thành phố và một vài phụ nữ đã tiếp cận họ rồi hỏi ‘Có muốn kiếm tiền dễ dàng không?
Đi Lạng Sơn lấy quần áo và về trong ngày’. Họ nhanh chóng nhận lời và đi sang Trung Quốc.
Khi các nạn nhân đến khu vực cửa khẩu, vì một lí do nào đó, không có quần áo ở đó và họ
được nói rằng – ‘chúng ta sẽ đi thuyền đến nơi lấy quần áo’. Và họ lại dễ dàng nghe theo! Một
khi họ bước qua biên giới, họ đã ở trên đất Trung Quốc!’33
Ở những địa bàn mà thị trường lao động không chính thức (hoặc các ngành nghề bất thường như mua bán cô
dâu) nở rộ, những người được hỏi cho biết các đối tượng tuyển mộ thường xuyên tụ tập ở những nơi công
cộng, hoặc thậm chí, trong một số trường hợp chính nạn nhân lại tự tìm đến người tuyển mộ:
“Địa bàn nguồn [nơi họ được tuyển mộ] thường là ở nông thôn hoặc trường học…Tại trường
học, chúng dung thủ toạn tán tỉnh nạn nhân. Ở nông thôn, chúng đi tới các chợ ‐ chợ phiên
mỗi tuần, địa điểm công cộng nơi nam nữ giao lưu gặp mặt, bắt chuyện rồi rủ rê, hẹn hò và
cuối cùng là bị bán.”34
Thi thoảng những người được hỏi còn cho biết nạn nhân được tuyển mộ thông qua mối quan hệ cá nhân của
chính nạn nhân trong đó có bạn bè, các thành viên trong gia đình – những người đã bị bán trước đó. Đơn cử:
“Năm 2017, có khoảng 10 vụ phụ nữ Việt Nam đang sinh sống tại Trung Quốc – một vài trong
số đó đã từng là nạn nhân bị buôn bán – lừa gạt chính những người họ hàng của mình [sang
Trung Quốc] bảo là đi sang chơi với con cái họ…”35
…
“Có nhiều vụ bạn bè lừa dối lẫn nhau trong đó có những người đã từng là nạn nhân nay quay
về lừa chính bạn mình. Những đối tượng này cố gắng thuyết phục bạn bè đi lên Hà Nội tìm
việc làm và nói – ‘Đi đi, để mở rộng quan hệ bạn bè ở Lào Cai!’. Và sau đó chúng đưa những
nạn nhân này lên biên giới và bán qua Trung Quốc…Đôi khi chính là họ hàng của nạn nhân làm
việc này. Họ muốn đưa nạn nhân sang bên kia biên giới để làm việc nhưng chính họ cũng không
ý thức được những nguy hiểm sau đó.”36
33 Phỏng vấn riêng, cán bộ quản lý ca của tổ chức Phi chính phủ, Hà Nội 03/10/2017 34 Phỏng vấn riêng, Chi cục Phòng chống Tệ nạn Xã hội, Lào Cai 28/11/2017 35 Phỏng vấn nhóm, Phó cục trưởng, cán bộ cục Cảnh sát Hình sự, Hà Nội 24/10/2017 36 Phỏng vấn riêng, cán bộ quản lý ca của tổ chức Phi chính phủ, Hà Nội 04/10/2017
Tháng 6/2019
37
Họ hàng của nạn nhân có thể có ý định tốt khi xem việc tuyển mộ như là một cơ hội chứ không phải là một
điều gì đó có thể gây hại cho nạn nhân, như trong đoạn hội thoại dưới đây. Liên quan đến điều này, rõ ràng
đối với những nạn nhân đã từng quen biết đối tượng tuyển mộ, họ thường tin tưởng và sẵn sàng chấp nhận
các cơ hội việc làm. Một phụ nữ trẻ bị buôn bán sang Malayxia làm việc trong ngành công nghiệp tình dục nhớ
lại:
“Hỏi. Cô của chị có nói cho chị biết về công việc sẽ làm là gì, mối trường làm việc ra sao, mức
lương như nào không?
Không, bà ấy chỉ nói là ra nước ngoài làm và tôi đã nghĩ rằng có thể kiếm được rất nhiều
tiền…Bà ấy nói tôi có thể kiếm hơn 10 hoặc 20 triệu vì vậy tôi rất háo hức đi. Tôi nghĩ rằng dù
gì bà ấy cũng là họ hàng nên tôi không phải đắn đo gì. Ban đầu tôi cũng có e ngại [về công
việc] nhưng tôi biết là [bà cô của tôi] đã đến đây nên tôi đã dần quen. Lúc đi tôi cũng có cảm
giác như bị lừa. Tôi nghĩ rằng họ là họ hàng của mình, tôi không bao giờ có thể tưởng tượng
là họ đã ép buộc tôi làm những công việc đó!”37
Khoảng 40.8% người có dấu hiệu bị buôn bán trẻ em được hỏi và hơn một phần tư, chiếm 28.7%, số thanh
thiếu niên có dấu hiệu bị cưỡng bức lao động trong quá trình di cư cho biết chính họ hàng hoặc người trong
gia đình là người sắp xếp việc đi lại cho họ.
Nhiều đại diện các cơ quan chức năng tham gia trả lời khảo sát cũng cho biết nạn nhân bị tuyển mộ bởi các
công ty tuyển dụng lừa đảo, đối tượng đẩy nạn nhân vào các thoả thuận mang tính bóc lột (và phi pháp). Rất
khó để phân biệt những công ty này với các công ty hoạt động hợp pháp khác ngoài việc họ thường đưa ra các
thoả thuận một cách nhanh chóng, chi phí dịch vụ rẻ hơn và hứa hẹn về các điều khoản và điều kiện hào phóng
hơn. Khi được hỏi liệu người lao động di cư có bao giờ nghĩ rằng đi qua những công ty không chính thống có
nhiều thuận lợi hơn không, một người đã cho biết:
“[Có] chi phí thấp hơn và thời gian [giải quyết thủ tục] nhanh gọn hơn và có khả năng được
trả lương cao hơn ở nơi đến. Nếu đi qua kênh chính thức, khi bên thuê lao động không tuân
thủ hợp đồng thì sẽ có người đứng ra bảo vệ…
[nếu đi qua những công ty phi pháp] sẽ rất khó để biết [phải trả bao nhiêu tiền]. Họ chỉ nói
rằng: ‘chi phí của người lao động di cư theo luật định’. Người lao động di cư thường nghe theo
mọi lời khuyên từ phía công ty tuyển dụng vì họ muốn được đi nước ngoài.”38
Mặc dù Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội có trách nhiệm quản lý các công ty tuyển dụng và có quyền tạm
dừng hoặc tịch thu giấy phép kinh doanh song việc thực thi các tiêu chuẩn và quy định lao động vẫn tồn tại
nhiều thách thức. Một đại diện tham gia trả lời phỏng vấn nghiên cứu chia sẻ thêm:
“Mọi người không biết về các quy định luật pháp…nó không minh bạch. Đây cũng là lĩnh vực
chứa đựng nhiều sự tham nhũng. Các công ty tuyển dụng có mối quan hệ mật thiết với các cơ
37 Phỏng vấn riêng, nạn nhân bị buôn bán, Tây Ninh, 18/03/2018 38 Phỏng vấn riêng, Tổ chức Lao động Quốc tế, Hà Nội, 04/10/2017
THẮP SÁNG HY VỌNG
38
quan chức năng. Họ vận động chính quyền địa phương và không đưa các thông tin trung thực
cho người lao động di cư”.39
5.3. Làm rõ yếu tố đồng thuận và cưỡng ép: vai trò trung gian của thanh thiếu niên
trong quá trình tuyển mộ
Các câu chuyện chủ đạo thường mô tả nạn nhân là những người thụ động và bất lực, bị tuyển mộ cưỡng ép
song số liệu từ nghiên cứu này lại cho thấy vai trò trung gian của nạn nhân trong quá trình tuyển mộ lại khá
phức tạp và tiến triển liên tục. Trong khi nhiều, thậm chí là phần lớn trẻ em và thanh thiếu niên bị cuốn vào
các mối quan hệ lao động có yếu tố bóc lột có thể không phải là do “trái ý muốn của họ” thì chắc chắn vẫn có
những yếu tố nằm ngoài mong muốn và lựa chọn của chính họ tác động tới việc tuyển mộ. Hơn nữa, sự sắp
đặt mang tính bóc lột thường trở nên dần dần cưỡng chế theo đó nạn nhân ban đầu tự lựa chọn rơi vào tình
huống và càng ngày càng khó có thể chống lại hay giải phóng bản thân họ khỏi tình huống đó và vấn đề này sẽ
được đề cập sâu hơn trong các trải nghiệm bị buôn bán ở chương sau của báo cáo này.
Như đã đề cập ở chương 1 (về khung khái niệm), tuyển mộ bằng hình thức ‘cưỡng ép’ hoặc ‘lừa gạt’ là một
yếu tố trọng tâm trong định nghĩa buôn bán người, trừ trường hợp buôn bán trẻ em. Đối với các trường hợp
dưới 18 tuổi, yếu tố cưỡng ép hay vai trò trung gian không liên quan đến câu hỏi liệu đứa trẻ đó có bị buôn
bán không. Nếu một đứa trẻ được tuyển mộ và vận chuyển vì mục đích bóc lột thì có nghĩa là nó đã bị buôn
bán không cần xem xét đến việc đã dùng thủ đoạn gì và đứa trẻ có đồng ý hay không. Tuy nhiên, khi xem xét
buôn bán trẻ em xảy ra như thế nào trên thực tế, việc khai thác làm rõ mức độ liên quan cuả trẻ là rất quan
trọng để có thể hiểu được lộ trình đưa trẻ đến hoàn cảnh bị buôn bán.
5.3.1. Vai trò tác động của cha mẹ và gia đình
Kết quả nghiên cứu chứng minh rằng việc tuyển mộ trẻ em vào hoàn cảnh bị buôn bán thường bị ảnh hưởng
bởi cha mẹ, gia đình và cộng đồng của trẻ. Điều này phản ánh sự lệ thuộc của trẻ, người gần như không có khả
năng tự chủ trong việc đưa ra các quyết định ảnh hưởng tới cuộc đời của chúng, và xem ra chúng bị ảnh hưởng
bởi mong muốn và quyết định từ người khác.
Khi được hỏi ai là người quyết định cho trẻ rời nhà ra đi, gần một nửa (47.3%) số người có dấu hiệu bị buôn
bán trẻ em tham gia trả lời phỏng vấn cho biết bố mẹ chúng là người đưa ra quyết định (hoặc, trong chừng
mực ít hơn, là họ hàng hoặc người khác). Trẻ em ở lứa tuổi nhỏ hơn được phát hiện là ít có sự liên quan đến
quyết định rời nhà ra đi so với trẻ lớn tuổi hơn. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy mối quan hệ đáng kể giữa
tuổi và khả năng tự mình đưa ra quyết định di cư của trẻ. Với mỗi một năm tuổi có liên quan đến việc tăng
27% khả năng trẻ nói ‘quyết định rời nhà ra đi là cho tôi tự quyết’ (logistic, p<0.0001).
Kết quả định lượng cũng cho thấy cha mẹ có nhiều cách khác nhau để gây ảnh hưởng đến việc tuyển mộ của
con cái họ. Một số người tham gia trả lời phỏng vấn cho biết người tuyển mộ có thể thoả thuận và đạt được
sự đồng ý trực tiếp từ bố mẹ của nạn nhân. Một đại diện từ Sở Lao động, Thương binh và Xã hội cho biết thêm:
39 Phỏng vấn riêng, ILO, Hà Nội 04/10/2017
Tháng 6/2019
39
“Trẻ em chủ yếu [bị đưa đi bóc lột lao động] thông qua người môi giới. [Người môi giới] sẽ
đưa ra một lời hứa với gia đình hoặc cha mẹ của trẻ và gia đình sẽ mang con tới địa điểm làm
việc. Có một trường hợp bị mua bán [theo đó] một đứa trẻ bị đưa từ Tây Nguyên xuống Thành
phố Hồ Chí Minh để làm việc [trong điều kiện bị bóc lột] tại nhà máy may…” 40
Trong cuộc trao đổi dưới đây, người mẹ của nạn nhân bị buôn bán nhớ lại những gì cô đã tác động tới việc
tuyển mộ của con gái mình:
“Gia đình tôi sống trong nghèo đói, chúng tôi không có tiền mà học phí thì cao. Học phí cho
một học sinh cấp hai rơi vào khoảng tám, chín trăm nghìn đồng (khoảng 40 Đô la Mỹ). Chúng
tôi không có tiền để trả nên con bé phải bỏ học. Không có ai giúp đỡ gia đình tôi cả…
Hỏi. Ai là người đã thu xếp việc đi thành phố làm việc?
Có một người trung gian, họ tìm người để lên thành phố làm việc… Họ gặp gia đình tôi rồi hỏi
liệu tôi có cho con đi làm ăn xa hay không. Nếu chúng tôi đồng ý, họ sẽ lo các thủ tục giấy tờ.
Họ hứa hẹn về một khoản tạm ứng và [nói rằng] sẽ chăm sóc [bọn trẻ] và sẽ đưa chúng về
thăm nhà vào dịp Tết
Hỏi. Tạm ứng– thế nghĩa là như nào?
Nếu con bé vừa học vừa làm, nó sẽ được trả khoảng 1 triệu hai hoặc 1 triệu ba trăm
đồng/tháng… Chúng tôi muốn họ trả trước để chúng tôi có thể dùng số tiền đó mua thức ăn
và đóng học phí cho bọn trẻ.
Hỏi. Vậy là họ hứa sẽ trả khoảng 1 triệu hai hoặc 1 triệu ba trăm ngàn đồng/tháng và cô bé có
thể học may?
Vâng.41
Cuộc trao đổi trên42 làm rõ các khoản tạm ứng tác động đến quyết định của cha mẹ gửi con ra ngoài làm việc,
thường là theo các điều khoản không chính thức và rủi ro. Các ví dụ điển hình trong nghiên cứu định tính đã
cho thấy người tuyển mộ và người sử dụng lao động thường không thực hiện các cam kết liên quan đến điều
kiện làm việc, lương lậu và các chương trình ‘đào tạo kỹ năng’ cho trẻ khi nhận việc. Thêm vào đó, việc tạm
ứng trước được xem là một chiêu phổ biến của những người sử dụng lao động, đặc biệt trong lĩnh vực dệt
may, đặt thanh thiếu niên vào những mối rủi ro lớn hơn: khi gia đình của họ đã mắc nợ chủ, rất khó để họ
tránh hoặc thoát ra khỏi hoàn cảnh bị bóc lột.
Kể cả trong những trường hợp cha mẹ và gia đình trẻ không liên quan trực tiếp đến việc tuyển mộ thì họ vẫn
được xem là có một sự ảnh hưởng to lớn đến quyết định của con cái. Điều này phù hợp với truyền thống gia
đình của Việt Nam trong đó quy định việc tôn trọng thứ bậc cũng như trách nhiệm hỗ trợ gia đình. Nhiều trẻ
40 Phỏng vấn riêng, Cục trưởng cục Bảo vệ và Chăm sóc Trẻ em, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, 04/10/2017 41 Phỏng vấn riêng, mẹ của trẻ bị buôn bán, Đắc Lắc 09/01/2018 42 Trong khi gia đình đã nhận tiền thì đứa trẻ bị đưa vào làm việc trong điều kiện bị bóc lột và không được đào tạo bất cứ kĩ năng gì, cuối cùng phải có sự vào cuộc của Hội Phụ nữ.
THẮP SÁNG HY VỌNG
40
em và thanh thiếu niên khi được hỏi đều nói rằng ý thức về trách nhiệm giúp đỡ gia đình đã thúc giục các em
đi làm hoặc di cư để tìm kiếm thu nhập:
Hỏi. Mẹ của em có phải là lao động chính kiếm tiền nuôi dưỡng cả gia đình không?
Em cũng phải làm việc để kiếm 10 hoặc 20 nghìn đồng phụ giúp gia đình. Em đã phải đi làm
từ năm lên 7 tuổi. Bố mẹ không ép phải đi làm nhưng họ quá nghèo nên em muốn chia sẻ gánh
nặng với họ.43
…
Hỏi. Gia đình nghĩ gì khi thấy em cưới một người đàn ông Trung Quốc làm chồng?
Mẹ không muốn em đi nhưng em quyết định đi để có tiền chữa bệnh cho mẹ. Mẹ đã khóc.
Không ai trong gia đình muốn em đi cả nhưng nhà em quá nghèo.44
Có một điều rõ ràng là ở Việt Nam, cha mẹ, gia đình và cộng đồng có một ảnh hưởng to lớn đến quyết định di
cư đi làm việc hoặc tìm kiếm cơ hội khác của trẻ, tuy nhiên điều quan trọng phải thừa nhận là, dù với bất cứ
động cơ gì thì trẻ em và thanh thiếu niên vẫn thể hiện vai trò liên quan của chúng trong những quyết định này,
giống như đã thể hiện trong cuộc trao đổi trên. Và cũng lưu ý rằng:
“Mặc dù trẻ em không nhất thiết là người đưa ra ý định di cư nhưng chúng hoàn toàn có thể
làm như vậy…thậm chí, trẻ lớn hơn có thể cũng không tham gia vào quyết định di cư. Tuy nhiên
trẻ lớn tuổi, đặc biệt là thanh thiếu niên, cũng có khả năng tự đưa ra quyết định di cư và là
người thực hiện chính cuộc di cư của mình.” 45
43 Phỏng vấn riêng, lao động trẻ em, Quảng Bình 14/02/2017 44 Phỏng vấn riêng, nạn nhân bị buôn bán, Tây Ninh 18/03/2018 45 Davidson, J., Câu chuyện được kể: Di cư, Buôn Bán, Lạm dụng và Bỏ mặc Trẻ em, 37, 2013, p. 1071.
Tháng 6/2019
41
Biểu đồ 4 Ai là người quyết định việc di cư của trẻ em có dấu hiệu bị buôn bán
5.3.2. ‘Em bị đánh thuốc mê’: Những câu chuyện bị cưỡng ép tuyển mộ
Khi được hỏi về những trải nghiệm trong giai đoạn tuyển mộ, nhiều trẻ em gái và phụ nữ trẻ tuổi cho biết họ
bị đối tượng buôn người đánh thuốc mê hoặc thôi miên. Thủ đoạn này đặc biệt phổ biến ở những vụ phụ nữ
và trẻ em gái bị buôn bán sang Trung Quốc làm vợ hoặc các hình thức bóc lột khác. Nó đã trở thành một xu
hướng nổi bật như mô tả dưới đây:
“Một người phụ nữ bảo em sang Trung Quốc làm việc. Họ đưa em qua biên giới và bảo em
uống tí rượu – sau đó thì em chẳng còn nhớ gì nữa.”46
…
“Lúc đó bà ấy lừa em, bà ta đưa em tới một ngôi nhà rồi bảo em uống 2 cốc nước nhỏ, sau
đó em thấy buồn ngủ. Lúc đó chúng em đang trao đổi với nhau bằng tiếng H’Mông nhưng
khi em tỉnh dậy em thấy bà ta đang nói tiếng Trung với ai đó. Bà ấy bảo chỗ này chả có gì để
làm nên chúng em lại đi tiếp, đến một cái cây ở gần rừng thì có hai người khác đưa em
đi…”47
…
46 Phỏng vấn nhóm phụ nữ trẻ và trẻ em gái bị buôn bán, Hà Giang 12/10/2017 47 Phỏng vấn nhóm phụ nữ trẻ và trẻ em gái bị buôn bán, Hà Giang 12/10/2017
Tự quyết định, 52.7%
Cha mẹ quyết định, 29.0%
Họ hàng/bạn bè, 5.3%
Khác, 13.0%
THẮP SÁNG HY VỌNG
42
“Đêm đó bà ta bảo con gái tôi đi ngủ và họ tiếp tục hành trình dài di chuyển. Khi lên thuyền,
bà ta đưa cho con bé cốc nước và bảo nó uống, uống xong, con bé bất tỉnh cho đến khi mở
mắt ra thì đã ở bên Trung Quốc.”48
…
“Hôm đó bạn em bảo đi cùng xuống Lào Cai chơi với bạn trai của nó; ban đầu em không đồng
ý, [nhưng] nó cứ nài nỉ nên em đi. Khi trời bắt đầu tối, họ bật đèn pin nên bọn em không nhìn
rõ lắm, sau đó họ rót nước cho bọn em. Em không để ý [nhưng họ] đã cho thứ gì đó vào cốc.
Uống xong em thấy trên miệng cốc có bột gì màu trắng. Một lúc sau em cảm thấy đau đầu.
Em thấy chóng mặt dù em chắc chắn là mình không hề uống rượu. Em không biết tại sao em
lại bị như thế. Đó là thuốc thôi miên, mặc dù em biết mình đang làm gì, đang đi đâu, đang bị
kiểm soát như nào nhưng em không thể chống lại yêu cầu của họ”.49
Nhưng câu chuyện này giống hệt kết quả từ những nghiên cứu hiện hành về nạn buôn bán người từ Việt Nam
sang Trung Quốc. Đơn cử một nghiên cứu chỉ ra rằng “một vài phụ nữ nói rằng họ bị đưa đi sau khi uống nước
và khi tỉnh dậy đã ở bên Trung Quốc”.50
Trong khi có khả năng đối tượng buôn người sử dụng thuốc mê hoặc chất kích thích để gây ảnh hưởng hoặc
kiểm soát nạn nhân, thì trong một số trường hợp thanh thiếu niên, đặc biệt là nữ, đã nói rằng bị cưỡng ép đưa
đi bởi năng lực siêu nhiên, mặc dù điều đó hơi có chút khó tin và chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Ví dụ, một vài
thanh thiếu niên kể rằng họ bị đưa đi liên quan đến việc ‘ăn kẹo’ hoặc một ‘mảnh vải’ bịt mồm/che mặt khiến
họ rơi vào trạng thái hôn mê hoặc thôi miên:
“Có một phụ nữ sống gần đó. Một hôm bố đi làm đồng, một phụ nữ đã lân la làm quen và cho
chúng em kẹo. Ăn xong bọn em đi theo bà ta. Bà ta cứ yêu cầu còn chúng em cứ đi theo…
…Chúng em đi tới cửa khẩu Trung Quốc, có một số phụ nữ Trung đã đợi sẵn ở đó. Chúng em
đi xuyên qua rừng. Trên đường đi chúng em gặp một người đàn ông hỏi là đang đi đâu, người
phụ nữ đó nói rằng bọn em đi cùng bà ta để giúp việc nhà, trông trẻ trong khi bà ấy đi làm. ”51
…
“Em không biết việc đó xảy đến như thế nào, nhưng một hôm, người đàn ông đã đưa em đi
gọi và bảo ‘có muốn làm bạn với anh không?’
Hỏi. Em có biết gì về anh ta không?
Không, em chẳng biết gì
48 Phỏng vấn riêng, mẹ của nạn nhân bị buôn bán, Bắc Giang 21/12/2017 49 Phỏng vấn riêng, bé gái bị mua bán trong cơ sở bảo trợ xã hội, Lào Cai 27/11/2017 50 Stockl, et al, Buôn bán phụ nữ và trẻ em gái Việt Nam sang Trung Quốc làm vợ, Nghiên cứu và Chính sách Y tế Toàn cầu, (2017) 2:28, Trang 3. 51Phỏng vấn nhóm trẻ em gái bị buôn bán, Hà Giang 11/10/2018
Tháng 6/2019
43
Hỏi. Làm thế nào anh ta có số điện thoại của em?
Em không biết. Anh ta nói có số của em qua facebook, nhưng em không dùng facebook? Em
không biết sao anh ta lại có số của em.
Hỏi. Anh ta đã nói gì?
Anh ta bảo trước tiên là bạn, sau đó thì là người yêu của nhau và đưa em đi. Em không chấp
nhận lời đề nghị đó. Em không đồng ý. Nhưng em không biết, anh ta đã dùng một loại thuốc
gì đó khiến em mất đi ý thức và cứ thế theo anh ta. Anh ta đặt tay lên vai em và em bị thôi
miên. Anh ta chở em bằng xe máy tới một ngôi nhà mà em không biết…”52
Ngoài những điều khó tin này thì những chia sẻ khác cũng chứa đựng khá nhiều mâu thuẫn. Chẳng hạn như
một bà mẹ trong cuộc trao đổi dưới đây đã kể với nhóm nghiên cứu rằng con gái chị đã dự định bỏ nhà đi với
chính người dụ bán nó bởi vì người đó đã hứa là sẽ lấy con bé cho dù gia đình cô bé có phản đối đi chăng nữa.
Những câu chuyện như thế này có thể là do nạn nhân tự dựng lên nhằm đánh lạc hướng sự kì thị của dư luận
vào câu chuyện của họ: tránh bị đổ lỗi cho việc họ bị bóc lột bằng cách khẳng định rằng họ không liên quan
hoặc không có khả năng kiểm soát việc ra đi của họ. Thực vậy, nhiều người tham gia khảo sát cũng cho biết họ
cảm thấy sợ hãi khi bị người khác phán xét hoặc phải chịu trách nhiệm cho việc bị lạm dụng bởi đó là do họ tự
đi hoặc do đồng ý với sự sắp đặt đẩy họ vào hoàn cảnh bị buôn bán. Một nạn nhân đã chia sẻ với nhóm nghiên
cứu:
“Không phải ai cũng [cố tình] đi nước ngoài. Tôi bị một số người rủ rê nên tôi mới đi… người
ngoài không biết. Nếu họ không biết chuyện thì họ sẽ cho rằng chúng tôi cố tình đi nước ngoài.
Chỉ đến khi nghe kể thì họ biết biết chuyện gì đã xảy ra và làm thế nào chúng tôi có thể trở
về.”53
Lời nói trên viện dẫn tầm quan trọng của việc phải tìm hiểu quyết định của nạn nhân trong bối cảnh; xem xét
những nhân tố hình thành nên quyết định, các khả năng thay thế, nạn nhân đã bị tác động/hoặc thao túng ra
sao, nạn nhân có khả năng chống lại không.
Sự lựa chọn luôn được cán bộ chức năng cũng như dư luận Việt Nam nói chung cân nhắc khi xác định xem
người đó có “đầy đủ các yếu tố” là nạn nhân bị buôn bán không. Đại diện của Dự án Liên Hợp Quốc Hành động
chống lại nạn Buôn bán người cho biết thêm:
“Mọi người không tự nhận mình là nạn nhân bị mua bán bởi mua bán người ở Việt Nam được
hiểu là có người bán và người mua. Họ thường nói ‘không ai bán tôi cả, là do tôi tự đi’”.54
Quan điểm này phần nào bắt nguồn từ cách tiếp cận của Chính phủ Việt Nam trong việc ứng phó với nạn buôn
bán người trong đó đề cao việc truy cứu trách nhiệm hình sự các hành vi phá hoại trật tự (đạo đức) xã hội thay
52 Phỏng vấn riêng, trẻ em gái bị buôn bán, Hà Giang 12/10/2018 53 Phỏng vấn riêng, phụ nữ trẻ bị buôn bán (từ khi còn là trẻ em) trong cơ sở bảo trợ xã hội, Lào Cai 27/11/2017 54 Phỏng vấn riêng, đại diện UNACT, Hà Nội 05/10/2017
THẮP SÁNG HY VỌNG
44
vì thúc đẩy quyền và phúc lợi con người.55 Điều này có khả năng cũng xuất phát từ những nỗ lực của chính
phủ trong việc kiểm soát di cư, và sự kế thừa của một chính phủ kiểm soát chặt chẽ di cư trong và ngoài nước
ở Việt Nam.
Trao đổi qua lại trong khảo sát định tính với thanh thiếu niên cũng thể hiện sự chi phối của nhận định nói trên,
kể cả đối với trường hợp đã bị buôn bán và sự mơ hồ xung quanh việc họ có liên quan và đồng thuận với quyết
định ra đi. Dưới đây là mẩu cuối trong trao đổi giữa nghiên cứu viên và nạn nhân bị buôn bán đã trích dẫn ở
trên:
“Hỏi. Vậy ý của em là buôn bán người hoặc di cư không an toàn xảy ra khi một người bị cưỡng
ép hoặc bị lừa gạt, còn cố tình đi nước ngoài thì không phải?
Đúng vậy.
Hỏi. Lí do bị buôn bán là gì?
Là do con người tham lam, một số người ham vật chất.”56
Ngay cả khi đã xác định được tầm quan trọng của việc nhận diện một cá nhân đã bị lừa gạt, cưỡng ép bởi đối
tượng buôn người ra sao thì những người được hỏi vẫn tiếp tục quy kết trách nhiệm cho nạn nhân và cho rằng
nạn nhân chấp nhận các cơ hội rủi ro vì lòng tham. Mâu thuẫn trong lí do mà nạn nhân chia sẻ ở trên cho thấy
sự thiếu nhất quán lớn giữa trải nghiệm của những đứa trẻ bị buôn bán thực sự với những câu chuyện được
các nhà hoạt động, chính trị gia hay tuyên truyền viên kể. Ngay cả khi nhận ra sự phức tạp xung quanh các khái
niệm như lựa chọn và đồng thuận – vốn là yếu tố không được tính đến trong các vụ việc mà nạn nhân là trẻ
em – thì vẫn có một xu hướng muốn cho rằng nạn nhân không phải chịu trách nhiệm cho việc họ bị buôn bán.
Một số học giả cho rằng sự khác biệt giữa thực tế và những câu chuyện phổ biến một phần là do kết quả của
các chương trình nghị sự chính trị. Có quan điểm nói rằng:
‘Những người muốn kiểm soát và hạn chế nhập cư và/hoặc giảm bớt nghĩa vụ cứu trợ nhân
đạo của chính quyền thường tìm kiếm sự khác biệt giữa những nạn nhân bị buôn bán đáng
thương (người được cho là không có bất kì lựa chọn hay vai trò liên quan nào trong mọi giai
đoạn bị buôn bán) với những người “di cư trái phép” hoặc di cư “bất hợp pháp” không đáng
thương (người được coi là tự chọn chuốc lấy đau khổ)’.57
5.4. Tuyển mộ và tính dễ bị tổn thương
“Những cô gái muốn lấy chồng ngoại quốc thường là gia đình rất nghèo. Các cô muốn lấy chồng để phụ giúp
kinh tế cho cha mẹ mình.”
55 Vijeyarasa, Ramona, “Nhà nước, gia đình và nhận xét ‘tệ nạn xã hội’: Tái kì thị nạn nhân bị buôn bán ở Việt Nam”, Văn hoá, Y tế và Tình dục, 12:1, 2010. 56 Phỏng vấn riêng, nạn nhân nữ bị buôn bán trong cơ sở bảo trợ xã hội, Lào Cai, 27/11/2017 57 Davidson, J. O. C. (2013). Kể chuyện: Buôn bán Trẻ em và Di cư Trẻ em. Lạm dụng và Bỏ mặc Trẻ em, 37(12), 1069–1079. https://doi.org/10.1016/j.chiabu.2013.10.012
Tháng 6/2019
45
– Người môi giới kết hôn.58
Mặc dù buôn bán người không loại trừ ai cả song các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng trẻ em và thanh thiếu
niên vẫn đặc biệt dễ có nguy cơ bị buôn bán. Cụ thể, nguy cơ cao đặc biệt được tìm thấy ở những thanh thiếu
niên sống trong cảnh thiếu thốn và nghèo đói. Trong khảo sát hộ gia đình, những thanh thiếu niên ở nhóm
nghèo nhất có khả năng bị buôn bán hoặc bị bóc lột khi di cư cao hơn 2.4 lần và có các dấu hiệu bị buôn bán
cao hơn 5 lần so với nhóm trẻ em có đời sống kinh tế thuộc nhóm đầu (logistic, p<.001). Phát hiện này cũng
tương thích với kết quả nghiên cứu rằng phần lớn trẻ em và thanh thiếu niên trở thành nạn nhân bị buôn bán
trong khi đi tìm các cơ hội tìm kiếm việc làm hoặc nâng cao đời sống kinh tế đối với trường hợp di cư để kết
hôn. Khi trẻ em và thanh thiếu niên dễ bị tổn thương, chúng có nhiều khả năng rơi vào những thoả thuận nguy
hiểm hoặc có khả năng bóc lột cao và ít có quyền để thương lượng hay mặc cả khi so sánh với nhóm có năng
lực và điều kiện kinh tế tốt hơn. Điều này đặt các em vào nguy cơ bị bóc lột cao hơn. Khi được hỏi trẻ em thuộc
nhóm nào có nguy cơ bị buôn bán cao nhất, một chiến sĩ biên phòng cho nhóm nghiên cứu biết; “là trẻ em của
những gia đình nghèo đang muốn tìm việc làm”.59
58Phỏng vấn riêng, người môi giới kết hôn, Cần Thơ 13/01/2018 59 Phỏng vấn riêng, Bộ đội Biên phòng, Cục Phòng chống Ma tuý và Tội phạm, 13/10/2017
THẮP SÁNG HY VỌNG
46
Hình 5: Điều kiện kinh tế và khả năng có dấu hiệu bị buôn bán
.
Các số liệu định tính mô tả lộ trình mà trong đó tính dễ bị tổn thương về kinh tế khiến trẻ chấp nhận sự sắp
đặt có nguy cơ cao mà thường sau đó là rơi vào hoàn cảnh bị bóc lột.
Trường hợp nghiên cứu: Tính dễ bị tổn thương về kinh tế và tuyển mộ60
Hai bé trai, Đức và Thành lớn lên trong một gia đình nghèo ở Đắc Lắc với bố mẹ và ba chị em gái. Gia đình sống
rất nghèo và hiếm khi nào đủ ăn. Cha của hai em hàng ngày làm thuê cho những người hàng xóm, chủ yếu là
làm nương rẫy và một vài công việc lặt vặt khác trong khi mẹ thì có mẹt bánh kẹo ngoài chợ. Sau khi học xong
lớp 6, Đức (15 tuổi) và em trai là Thành (12 tuổi) cùng với mẹ đi lên Sài Gòn tìm việc để phụ giúp kinh tế cho
gia đình. Trong vài năm, hai anh em đã trải qua vô số công việc: làm trong xưởng may, bán cà chua trên đường,
làm cho công ty bao bì… Tất cả đều là những công việc không chính thức, cả Đức và Thành không hề có hợp
đồng lao động. Khi mẹ quay về Đắc Lắc thì hai anh em vẫn ở lại Sài Gòn vì ở đây có nhiều công việc hơn, sau
đó hai em làm làm việc cho một nhà máy sản xuất phân bón ở Bình Điền. Công việc đòi hỏi tiêu tốn khá nhiều
sức lực nên cả hai anh em đều có vấn đề về sức khoẻ như nhiễm trùng và chảy máu cam do tiếp xúc với phân
bón hàng ngày. Cuối cùng hai anh em phải quay trở về Đắc Lắc và tìm việc khác. Trên đường về quê, hai anh
em bị một nhóm đánh cá bất hợp pháp, chuyên trộm lưới của các tàu cá Malaysia, tuyển mộ. Đức nhớ lại:
“Bọn em nói chuyện phải làm gì đây, khi quay về nhà là không có việc làm. Bạn của em hỏi một ông lái xe ôm,
ông này bảo biết có chỗ cần người, đánh bắt hải sản hay gì đó. Ông ta gọi điện cho hai người đàn ông đến,
60 Trường hợp nghiên cứu này dựa trên hai cuộc phỏng vấn, một với Đức (tên đã được đổi để đảm bảo danh tính), một với mẹ của em tại gia đình em ở Đắc Lắc, 10/01/2018.
Người tham gia khảo sát
thuộc nhóm ‘nghèo nhất’
CÓ KHẢ NĂNG có chỉ số bị
buôn bán cao gấp
5 LẦN
so với người tham gia
khảo sát thuộc nhóm có
đời sống kinh tế khá nhất
Tháng 6/2019
47
những người này đưa tiền cho bọn em, mua vé, trả tiền đồ ăn, sau đó một người đàn ông nữa lại đến…”. Các
cậu bé bị sang tay đến năm lần và đều có sự giám sát đi kèm của đối tượng buôn người trong quá trình di
chuyển trước khi bị tách ra và đưa xuống hai tàu cá khác nhau để bóc lột lao động và không được trả lương.
Mẹ của Đức cho biết thêm, “Ngay khi xuống tàu các con của tôi đã biết là chúng bị lừa, nhưng vì đã lên tàu ra
khơi – hợp đồng buôn bán chúng đã được kí và hai anh em đã bị buôn bán theo cách đó”.
Trong cuộc khảo sát, những yếu tố căng thẳng và dễ bị tổn thương trong gia đình cũng có liên quan đến các
chỉ số bị buôn bán và bóc lột. Các kết quả nghiên cứu cho thấy trẻ em thiếu vắng sự chăm sóc của cha mẹ đặc
biệt dễ có nguy cơ bị bóc lột: Phân tích số liệu trong Khảo sát Hộ gia đình của trẻ thanh thiếu niên cho thấy
các trẻ sống trong gia đình có đầy đủ bố mẹ ít có khả năng có dấu hiệu bị buôn bán hơn là những trẻ thiếu đi
một gia đình đầy đủ (chi square, p<.05). Hơn nữa, có một tỉ lệ cao những người được hỏi có dấu hiệu bị buôn
bán trẻ em sống trong gia đình đơn thân, đặc biệt là hộ cha đơn thân (chi square, p<.05)61 . Những người tham
gia phỏng vấn trong khảo sát định tính cũng xác định thiếu vắng sự chăm sóc của cha mẹ là một trong những
nhân tố nguy cơ khiến trẻ đặc biệt dễ bị buôn bán:
“Nguy cơ buôn bán người ngày càng cao khi mà các gia đình không có thời gian chăm sóc con
cái …”62
…
“Trẻ em lang thang cơ nhỡ, trẻ khuyết tật và trẻ thiếu vắng sự chăm sóc của cha mẹ (li hôn, đi
tù) là những em có nguy cơ cao nhất.”63
…
“Trẻ em của những gia đình nghèo dễ trở thành nạn nhân bị buôn bán nhất. Những trẻ này
phải lao động từ khi còn rất nhỏ, chúng gần như không được gia đình để mắt đến và do vậy
có nguy cơ cao bị buôn bán. Nhóm thứ hai là những trẻ chơi bời, lêu lổng cũng có thể trở thành
nạn nhân bị buôn bán.”64
Quy mô hộ gia đình cũng được tìm thấy là có liên quan đến các chỉ số buôn bán trẻ em, theo đó cứ mỗi gia
đình thêm một thành viên thì lại tăng 10% nguy cơ bị buôn bán trẻ em (logistic, p<.05). Điều này cũng phản
ánh một thực tiễn là những gia đình đông con sẽ có nhiều áp lực tài chính hơn do nhiều miệng ăn và khả năng
là con cả trong gia đình cũng được xem là một trong những lao động chủ chốt. Ngoài ra, nghề nghiệp của gia
đình cũng có thể có tác động tới tính dễ bị tổn thương; trẻ từ các gia đình công nhân, nông dân có khả năng
cao có dấu hiệu bị mua bán trong quá trình di cư.
61 P<0.05 62 Phỏng vấn riêng, Chi cục Phòng chống Tệ nạn xã hội, Huế, 13/12/2017 63 Phỏng vấn riêng, Cục Phòng chống Ma tuý và Tội phạm – Bộ đội Biên phòng, 13/10/2017 64 Phỏng vấn riêng, Trung tâm Trợ giúp Pháp lý, Huế, 13/10/2017
THẮP SÁNG HY VỌNG
48
Có một sự nhất trí cao rằng trẻ em và thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn dễ có nguy cơ bị buôn bán và
chịu các hình thức bóc lột khác. Thêm vào đó, khi được hỏi nhóm trẻ nào dễ có khả năng bị buôn bán nhất thì
phần lớn những người được hỏi đều đồng loạt cho rằng trẻ em dân tộc thiểu số đặc biệt có nguy cơ cao:
“Chủ yếu là người dân tộc thiểu số bị buôn bán do họ có nhận thức hạn chế. Bên cạnh đó, do
phong tục tập quán nên mối quan hệ nam nữ rất tự do, thoải mái, không cần biết ở gần hay
xa, chỉ cần người nam giới ngỏ lời là người nữ giới sẽ đi theo làm vợ, hoặc chỉ cần một cuộc
gọi điện thoại và gặp mặt rồi hẹn hò đi chơi xa và khi đến Trung Quốc, họ đã bị bán.”65
..
“Nhóm dân tộc H’Mông là có nguy cơ cao nhất, sau đó là Dao. Có thể là do phần lớn họ đều
mù chữ… hoặc cũng có thể do người H’Mông rất dễ dãi, dễ làm quen và sau đó thì bị lừa.”66
Trong những ví dụ trên, những người được hỏi thường cho rằng người dân tộc thiểu số dễ bị tổn thương vì họ
ngây thơ, ít được học hành và dễ bị lừa gạt hoặc thao túng. Quan điểm này phản ánh một tranh luận xã hội ở
khía cạnh rộng hơn rằng ngoài hai dân tộc nói trên còn có những nhóm dân tộc thiểu số khác và mô tả nạn
nhân là những người thụ động, bất lực và thiếu sự kết nối. Một đại diện từ Cục bảo vệ và Chăm sóc Trẻ em đã
mô tả về nhận định này
“Thông qua các trang mạng xã hội, chúng tôi thường được nghe rằng có các vụ việc liên quan
đến người dân tộc thiểu số ở vùng sâu vùng xa nhưng khi nhìn vào số lượng vụ việc thực tế,
con số này không nhiều…
Hỏi. Tại sao anh/chị cho là các vụ việc có liên quan đến người dân tộc thiểu số lại được đưa
lên mạng?
Trong suy nghĩ của đại bộ phận người dân đều cho rằng người dân tộc thiểu số dễ bị lừa – đây
cũng là một dạng kì thị.”67
Dẫn chứng trên cho thấy, quan điểm cho rằng người dân tộc thiểu số đặc biệt dễ bị buôn bán có thể là do nhận
thức có tính chất kì thị dân tộc về trình độ, sự kết nối và tính dễ bị tổn thương. Điều thú vị là, mặc dù kết quả
nghiên cứu cho thấy thanh thiếu niên người dân tộc thiểu số có nguy cơ cao bị buôn bán hơn thanh thiếu niên
người dân tộc Kinh nhưng đó chủ yếu là do các yếu tố tổn thương về kinh tế chứ không phải do văn hoá hay
do họ là người dân tộc. Theo dữ liệu khảo sát, tỷ lệ báo cáo các vụ buôn bán trẻ em của thanh thiếu niên người
dân tộc thiểu số cao gấp 3 lần so với trẻ em người Kinh (logistic, p<.0001), tuy nhiên mối tương quan này hoàn
toàn biến mất khi điều chỉnh yếu tố kinh tế gia đình.
Có một sự khác biệt tương tự giữa đặc điểm của các nạn nhân bị ‘đóng khung’ với những đặc điểm về nhân
khẩu học có liên quan đến việc bị buôn bán xuất hiện trong các kết quả nghiên cứu về khuyết tật tâm thần.
Khuyết tật tâm tần (hay thiểu năng trí tuệ) là một hình thức dễ bị tổn thương khác thường gắn với nạn nhân
65 Phỏng vấn riêng, Cán bộ Trung tâm TGPL tại Lào Cai, 28/10/2017 66 Phỏng vấn riêng, Cán bộ xã hội tại Lào Cai, 28/10/2017 67 Phỏng vấn riêng, Đại diện Cục BV&CSTE, Bộ LĐTB&XH tại Hà Nội, 04/10/2016
Tháng 6/2019
49
bị buôn bán; một số báo cáo toàn cầu cho thấy trẻ em bị thiểu năng trí tuệ hoặc suy giảm năng lực trí tuệ có
thể rất dễ dàng có nguy cơ cao bị buôn bán68. Thực vậy, các cán bộ quản lí ca được phỏng vấn trong nghiên
cứu đã mô tả một vài trường hợp nạn nhân bị đối tượng buôn người tiếp cận dễ dàng như nào, do bị suy giảm
năng lực trí tuệ khiến họ dễ dàng bị lừa gạt, khống chế và kiểm soát hơn.69 Đáng chú ý, 18.6% người được hỏi
trong khảo sát người hưởng lợi cho biết có bị thiểu năng trí tuệ, một tỷ lệ cao đáng kể so với dân số Việt Nam
nói chung. Tuy nhiên, điều thú vị là, không có ai trong khảo sát hộ gia đình cho biết bị thiểu năng trí tuệ. Mặc
dù lí do giải thích cho sự khác biệt này không rõ ràng lắm, tuy nhiên nó có thể phản ánh một thực tế rằng trẻ
em bị buôn bán trở về được có khuyết tật thâm thần có khả năng cao nhận được các dịch vụ trợ giúp do chúng
cần nhiều hơn. Đây cũng có thể là là cách mà một người bị buôn bán trở về có khả năng cao được tự xác định.
Nhìn chung, trong khi các câu chuyện chủ đạo và các mong đợi chi phối buôn bán người có xu hướng vẽ nên
bức tranh nạn nhân là những người dễ bị tổn thương, thiếu năng lực hành vi và khả năng thì bằng chứng từ
nghiên cứu lại không hỗ trợ cho những liên tưởng này. Thay vào đó những kết quả từ nghiên cứu cho thấy,
đến thời điểm này, tính dễ bị tổn thương về kinh tế vẫn là nhân tố quan trọng nhất tác động đến khả năng trẻ
bị buôn bán. Những kết quả này cũng nhất quán với bằng chứng trong tuyển mộ vốn cho thấy đại đa phần
buôn bán người xuất hiện trong quá trình một người đi tìm kiếm các cơ hội nâng cao đời sống kinh tế. Trẻ em
và thanh thiếu niên sống trong các gia đình hạn chế về nguồn lực kinh tế sẽ có nhiều rủi ro hơn vì phải đi kiếm
tìm những cơ hội kể trên, có ít sự lựa chọn hơn và dễ dàng chấp nhận bước chân vào các thoả thuận hoặc hợp
đồng đầy rủi ro đó.
68Xem thêm: “Nạn nhân bị buôn bán là người khuyết tật hoặc tâm thần: Tài liệu tham khảo chú thích, Trung tâm Nghiên cứu Nạn, https://ncvc.dspacedirect.org/bitstream/handle/20.500.11990/1023/CVR_Biblio_Trafficking_508.pdf
THẮP SÁNG HY VỌNG
50
6. Trải nghiệm (liên quan đến) bị buôn bán: nhận diện
buôn bán người
Buôn bán người là một khái niệm rộng bao gồm một loạt hành vi, thực tiễn, sự dàn xếp và các mối quan hệ,
từ bóc lột lao động trong các khu công nghiệp tới việc tham gia vào buôn bán ma tuý, các công việc thời vụ
không chính thức trong ngành nông nghiệp và đánh bắt hải sản cho đến mại dâm và kết hôn cưỡng ép. Chương
này cố gắng bóc tách sự đa dạng đó thông qua việc phân tích các trải nghiệm bị buôn bán thật (hoặc bị ép
buộc, bóc lột trong quá trình di cư) của trẻ em và thanh thiếu niên nhằm vẽ ra bức tranh về buôn bán người
trông như thế nào trong thực tiễn. Đặc biệt, chương này sẽ xem xét các loại hình công việc và bối cảnh khác
nhau mà buôn bán người xuất hiện, các hình thức ép buộc và kiểm soát mà trẻ em và thanh thiếu niên đã phải
trải qua cũng như mức độ và các loại hình bóc lột, bạo lực mà trẻ phải chịu. Dựa trên bằng chứng về những
trải nghiệm bị buôn bán của thanh thiếu niên, chương này sẽ tìm cách làm sáng tỏ liệu những trải nghiệm bị
buôn bán trong thực tế giống hoặc khác so với các loại hình buôn bán trẻ em được nêu trong luật, chính sách
hay những câu chuyện văn hoá chính thống như thế nào. Từ những bằng chứng này, có gợi ý gì cho các sáng
kiến hướng đến việc phòng ngừa và ứng phó với nạn buôn bán người.
6.1. Các hình thức bóc lột
‘Nạn nhân bị buôn bán trước tiên được cho là phụ nữ hoặc bé gái di cư bị cưỡng ép làm mại dâm.'
– Anderson, 2014
Câu chuyện chủ đạo về buôn bán người có thiên hướng tập trung vào các ca bóc lột tình dục thương mại. Câu
chuyện về ‘phụ nữ di cư hoặc bé gái bị cưỡng ép làm mại dâm’ xem chừng được xuất hiện mọi lúc, mọi nơi khi
mà buôn bán người được đưa ra xem xét và thảo luận – trên các phương tiện truyền thông, trong các bài diễn
văn của chính trị gia, các nhà vận động và các chiến dịch chống buôn bán người. Một học giả đã chỉ ra rằng,
mặc dù ‘các tài liệu của chiến dịch [chống buôn bán người] thường liệt kê nhiều ngành nghề khác nhau nơi
nạn nhân là trẻ em có thể được tìm thấy thì, đa phần không có ngoại lệ, những tài liệu này nhấn mạnh mối
liên hệ giữa buôn bán trẻ em và bóc lột tình dục bằng cách đưa mại dâm trẻ em lên đầu danh sách’.70
Tương tự, ở Việt Nam, khi được hỏi về các loại hình buôn bán trẻ em, người trả lời thường mô tả các trường
hợp trong đó trẻ em, gần như luôn luôn là bé gái, bị buôn bán vào ngành công nghiệp tình dục:
Hỏi. Trẻ em bị buôn bán vì mục đích gì?
Nếu là nữ thì 99% bị đưa đến các nhà hàng, khách sạn… Họ bị bóc lột tình dục và sau đó thì
thành gái mại dâm.
70 Davidson J. O. C. (2013). Kể chuyện: Di cư và Buôn bán trẻ em. Lạm dụng và Bỏ mặc Trẻ em, 37(12), 1069–1079. https://doi.org/10.1016/j.chiabu.2013.10.012.
Tháng 6/2019
51
Hỏi. Có trẻ em trai không?
Có nhưng rất ít…71
Mặc dù người tham gia phỏng vấn nhấn mạnh nạn nhân điển hình là bé gái bị buôn bán vào ngành công nghiệp
tình dục song những kết quả nghiên cứu lại chỉ ra rằng loại hình buôn bán này lại tương đối hiếm: chỉ 4.8%
trong tổng số người được hỏi có dấu hiệu bị buôn bán trẻ em được xác định trong nghiên cứu là có liên quan
đến mại dâm72. Kết quả này phần nào có thể phản ánh thực trạng thiếu số liệu báo cáo về sự thay đổi này, tuy
nhiên vẫn còn rất thấp, đặc biệt khi so sánh với các ngành nghề khác mà trẻ em và thanh thiếu niên (được cho
là) bị bóc lột.
Theo các kết quả từ khảo sát nghiên cứu, buôn bán trẻ em xuất hiện ở nhiều ngành nghề, với nhiều loại hình
khác nhau. Như mô tả trong biểu đồ dưới đây, phần lớn các trường hợp di cư có dấu hiệu bị buôn bán xuất
hiện trong ngành công nghiệp dịch vụ, tiếp theo là nhà máy công xưởng, dệt may và nông nghiệp. Bé trai
dường như được tìm thấy bị buôn bán đến một số ngành chủ chốt, điển hình là nông nghiệp, đánh bắt thuỷ
sản và nhà máy công xưởng trong khi bé gái chủ yếu bị buôn bán vào ngành dệt may, mại dâm hoặc giúp việc
gia đình, kết quả này cho thấy có yếu tố giới liên quan đến việc tuyển dụng lao động trẻ em cũng như những
loại hình công việc mà trẻ có xu hướng đi tìm.
71 Phỏng vấn lãnh đạo, Chi cục PCTNXH tỉnh Lào Cai, 28/11/2017 72 Mặc dù kết quả này phần nào có thể phản ánh thực trạng thiếu số liệu báo cáo về sự thay đổi này, tuy nhiên vẫn còn rất thấp, đặc biệt khi so sánh với các ngành nghề khác mà trẻ em và thanh thiếu niên (được cho là) bị bóc lột.
THẮP SÁNG HY VỌNG
52
Biểu đồ 4: Nghành nghề trẻ có dấu hiệu buôn bán bị bóc lột
Điều quan trọng là có quan sát thấy sự khác biệt đáng kể giữa số mẫu tham gia phỏng vấn có dấu hiệu buôn
bán trẻ em trong Khảo sát Người thụ hưởng so với Khảo sát Hộ gia đình Thanh thiếu niên liên quan đến cả yếu
tố giới tính và loại hình công việc mà trẻ được tuyển mộ và bị bóc lột vốn gây sự chú ý trong các câu chuyện
chủ đạo và trông đợi về ‘hình mẫu lý tưởng’ trẻ em là nạn nhân bị buôn bán. Như đã đề cập ở Chương 3 trong
báo cáo này (xem xét về loại hình và mức độ phổ biến của buôn bán trẻ em), tỷ lệ bé trai được tìm thấy bị
buôn bán nhỉnh hơn so với bé gái trong Khảo sát Hộ gia đình Thanh thiếu niên. Tuy nhiên có đến ba phần tư
(73.5%) tổng số mẫu trong khảo sát người thụ hưởng là bé gái, [tỉ lệ này] phản ánh mối quan tâm của những
nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ trong việc xác định và cung cấp các dịch vụ lưu trú cho nạn nhân là bé gái bị buôn
bán trở về (nội dung này sẽ được trình bày sâu hơn ở Chương 7). Thêm vào đó, trong khi phần lớn người tham
gia trả lời phỏng vấn có dấu hiệu bị buôn bán trong Khảo sát Hộ gia đình Thanh thiếu niên có xu hướng cho
biết phải làm việc trong ngành dịch vụ, nhà máy công xưởng và may mặc thì số trả lời trong khảo sát người
thụ hưởng chủ yếu là người hành nghề mại dâm, giúp việc gia đình hoặc làm nông.
6.2. Tìm hiểu về trải nghiệm bị buôn bán của trẻ
Bằng chứng thu được từ khảo sát cho thấy trẻ phải chịu hàng loạt các hình thức bóc lột, cưỡng ép và kiểm
soát trong thời gian bị buôn bán. Trẻ em và thanh thiếu niên tham gia trả lời phỏng vấn đã mô tả về những
khó khăn kinh hoàng: làm việc trong điều kiện bị bóc lột, phải chịu đựng nhiều hình thức lạm dụng và bạo lực
khác nhau. Nhiều người cho biết phải làm việc quá giờ, không được nghỉ ngơi hoặc có ngày nghỉ, kể cả khi bị
ốm và luôn bị đe doạ trừng phạt:
0%
5%
10%
15%
20%
25%
Nông nghiệp Đánh bắt cá Dệt may Công xưởng Giúp việc gia đình
Dịch vụ Mại dâm Khác
Nam Nữ Trung bình
Tháng 6/2019
53
“Bọn em phải làm việc liên tục không được nghỉ tí nào. Nếu nghỉ, họ sẽ mắng hoặc đe doạ
đánh.” 73
‐ Phụ nữ trẻ bị bán sang Trung Quốc làm vợ và làm nông từ khi còn là một đứa trẻ
…
“[Tôi phải làm việc] từ 11 giờ trưa đến 1‐2 giờ sáng hôm sau, bất cứ khi nào có khách gọi.”74
‐ Phụ nữ trẻ bị bán sang Cambodia làm mại dâm
…
“Đó là công việc rất vất vả. Mặc dù người đau nhừ, họ vẫn bắt bọn em phải làm việc. Anh
không bao giờ được nghỉ kể cả khi bị ốm, sốt.”75
‐ Nam thanh niên bị bán vào mỏ vàng ở Việt Nam từ khi còn là một đứa trẻ
…
“Bọn em phải dậy từ 4 giờ sáng để thả lưới rồi kéo lưới lên vào lúc 11 giờ. Ai làm chậm thì sẽ
bị họ mắng. Bọn em làm việc đến 3 giờ sau đó thì được nghỉ đến 6 giờ. Bọn em phải làm việc
rất nhiều.”76
‐ Nam thanh niên bị bán sang Malaysia làm việc trên tàu đánh cá
Như các trích dẫn trên đã chỉ ra, làm việc trong các điều kiện bị bóc lột được tìm thấy trong mọi ngành nghề
mà trẻ em bị buôn bán vào. Thực vậy, số liệu nghiên cứu cho thấy phần lớn trẻ bị buôn bán đều phải chịu một
vài hình thức bóc lột lao động nào đó: 88.2% trẻ có dấu hiệu bị buôn bán trong cả hai khảo sát đều cho biết
phải làm việc nhiều giờ trong ngày.
Như đã đề cập trong chương 5 về tuyển mộ, trẻ em và thanh thiếu niên phải làm việc trong các điều kiện khác
xa so với những gì chúng mong đợi khi được tuyển mộ hoặc quyết định di cư đi tìm việc ban đầu. Trong nhiều
trường hợp, điều kiện làm việc thường xuyên bị vi phạm so với những thoả thuận đã được hứa hẹn trước đó.
Nhiều người cho biết họ phải làm việc nhiều giờ hơn và nhận lương thấp hơn so với lời hứa hẹn. Một phụ nữ
trẻ bị bóc lột trong ngành may mặc từ khi còn là một đứa trẻ cho biết thêm, “Ngay từ đầu khi chủ nói với tôi
về công việc, tôi đã mặc cả là tôi chỉ làm muộn nhất là đến 10 giờ tối, nhưng thực tế họ bắt tôi phải làm đến 2
giờ sáng.”77 Một người được phỏng vấn khác bị bán sang Trung Quốc làm việc trong ngành lâm nghiệp nhớ
73Phỏng vấn riêng, bé gái bị buôn bán ở Trung tâm BTXH tỉnh Lào Cai, 27/10/2017 74Phỏng vấn riêng, phụ nữ trẻ bị buôn bán ở Sóc Trăng, 14/01/2018 75Phỏng vấn riêng, nam thanh niên bị buôn bán ở Huế, 12/12/2017 76Nam nạn nhân, bị bán sang Malaysia làm việc trên tàu cá khi 21 tuổi, ở Đắc Lắc 77Phỏng vấn riêng, phụ nữ trẻ bị buôn bán từ khi còn là một đứa trẻ ở Huế, 08/10/2017
THẮP SÁNG HY VỌNG
54
lại: [Bọn tôi đã thoả thuận] lương là 3500 Nhân dân tệ/tháng…Nhưng họ không trả. Họ bảo sẽ trả khi nào
chúng tôi về.”78
Tuy nhiên điều nghịch lí ở chỗ, mặc dù phải làm việc trong các điều kiện tồi tệ song kết quả lại cho thấy trẻ em
thường tự nguyện ở lại trong môi trường bóc lột đó. Theo số liệu khảo sát, phần lớn trẻ em bị rơi vào hoàn
cảnh bị bóc lột lao động hoặc các mối quan hệ tình dục cuối cùng đều tự mình thoát ra khỏi đó: 75.2% người
được hỏi có dấu hiệu bị buôn bán trẻ em79 nói rằng họ được cho về, chỉ có ít hơn một phần tư 24.8% nói rằng
tự bỏ trốn hoặc được giải cứu (bởi công an hoặc người khác).
Điều quan trọng phải ghi nhận ở đây là các kết quả phân tích định lượng không bao gồm các trường hợp trẻ
vẫn còn đang mất tích hoặc chưa trở về, và do vậy sẽ là hợp lý nếu hi vọng những trẻ cần được giải cứu hoặc
trốn thoát khỏi tình trạng bị bóc lột có nhiều khả năng rơi vào nhóm này. Thêm vào đó, các trường hợp nạn
nhân ‘được cho về’ có khả năng trước đó đã phải chịu các hình thức cưỡng ép và kiểm soát bắt buộc họ phải
ở lại trong điều kiện bị bóc lột và nguy hiểm hoặc dựng lên các rào cản khiến họ không có khả năng trốn thoát,
mặc dù vậy, cuối cùng thì những nạn nhân này lại ‘được cho về’. Nội dung này sẽ được làm rõ hơn ở phần tiếp
theo.
Biểu đồ 6: Trẻ em làm thế nào để thoát ra khỏi hoàn cảnh bị bóc lột?
78 Phỏng vấn riêng, nam thanh niên bị buôn bán, Lào Cai, 29/11/2017 79 Người đã thoát ra khỏi hoàn cảnh bị buôn bán.
Tôi được cho về, 75.16%Tôi bỏ trốn, 10.83%
Được công an giải cứu, 9.55%
Được người khác cứu, 4.46%
Tháng 6/2019
55
6.2.1 Cơ chế ép buộc và kiểm soát
Số liệu khảo sát định tính mô tả các hình thức ép buộc mà nạn nhân phải trải qua; trẻ em và thanh thiếu niên
bị buôn bán đã liệt kê bị gây áp lực, hăm doạ, cưỡng ép và kiểm soát theo nhiều cách, từ vô hình đến hữu
hình. Trong một số trường hợp, có cả việc giam cầm thân thể. Mẹ của một bé trai bị buôn bán nhớ lại: “nó bị
bán xuống một cái tàu to đi khắp Thái Lan. Khi quay trở về, nó đã kể cho tôi nghe việc nó bị còng tay ra sao”.80
Những người khác kể rằng họ bị giám sát liên tục, bị giam giữ trong những căn phòng có khoá hoặc đối mặt
với sự trừng phát nếu có ý định bỏ trốn. Câu chuyện của Linh, một phụ nữ trẻ bị bán sang Trung Quốc càng
làm rõ hàng loạt hình thức ép buộc và kiểm soát mà nạn nhân phải chịu:
Linh tự nguyện đi sang Trung Quốc với sự giúp đỡ của một phụ nữ Việt – người đã hứa xin việc làm trong nhà
hàng cho Linh. Cô vẫn nhớ khoảnh khắc cô bắt đầu lo lắng vì cảm thấy có gì đó không ổn: “Tôi không thể gọi
điện cho ai cả ‐ họ không cho mang điện thoại hay hành lí. Người phụ nữ đưa tôi đi nói bà ấy sẽ giữ đồ đạc
cho…những quần áo cũ này trông không phù hợp để làm việc, họ sẽ mua quần áo mới cho tôi”. Khi Linh thắc
mắc, một trong số các đối tượng buôn người hứa sẽ mua cho cô một cái sim quốc tế để có thể gọi điện về nhà.
Linh nhớ lại: “tôi tin những gì bà ta nói, bà ta còn thề rằng bà ấy sắp già rồi nên chẳng có lí do gì để lừa tôi cả.
Bà ta còn bảo bà ta sợ là tôi sẽ bị cảnh sát Trung Quốc bắt và sẽ mất một khoản tiền lớn để bảo lãnh tôi ra!”
Linh sau đó được giao cho một người đàn ông Trung Quốc trông coi – người được nói là sẽ đưa cô đến nhà
hàng để làm việc. Linh nhớ lại: “Ngày hôm sau, tôi không đi làm, tôi không biết tiếng Trung nên không thể nói
chuyện với họ…tôi cũng không hiểu chuyện gì đang diễn ra. Tôi bắt đầu nghi là có chuyện gì đó chẳng lành.
Ngày thứ hai, tôi bảo người đàn ông đó cho tôi về nhà…tôi chỉ ra ngoài ý nói là tôi muốn về.”
Kể cả đối tượng buôn bán Linh có hiểu yêu cầu của cô thì chúng cũng tảng lờ đi. Thay vào đó, Linh bị đưa đến
một ngôi nhà mà ở đó cô bị đe doạ, lạm dụng và bị giam giữ nghiêm ngặt. Linh kể về đêm đầu tiên ở đó: “Buổi
tối, sau khi tắm xong, tôi về phòng để ngủ thì hắn ta vào đòi ngủ cùng. Tôi không đồng ý và khoá cửa lại. Hắn
đập cửa liên hồi cho tới khi tôi phải mở…và hắn nói sẽ giết tôi nếu tôi từ chối. Hắn bỏ đi và quay lại với một
con dao. Tôi chạy ra khỏi phòng, hắn khoá tất cả các phòng trong nhà để không cho tôi chạy ra ngoài.” Linh
cuối cùng cũng hiểu ra rằng cô bị bán làm vợ cho người đàn ông này: “tôi giống như một tù nhân – luôn luôn
bị theo dõi, camera đặt khắp nơi…”
Sau một thời gian, Linh đã có thể trốn thoát trở về:
“tôi ghi nhớ lịch của hắn. Hắn thường ra khỏi nhà từ 1 – 6 giờ chiều. Khi hắn đi vắng, mẹ và cháu hắn sẽ trông
chừng tôi. Vào hôm mẹ hắn đi tưới rau ở vườn xa nhà, thông thường tôi vẫn đi cùng bà ta, nhưng hôm đó tôi
từ chối không đi. Tôi nhìn thấy hắn mở cửa và đi ra ngoài, tôi đoán hắn sẽ đi đến chiều tôi…cho nên tôi chuẩn
bị trốn ngay. Tôi có ít tiền để đi xe. Bình thường hắn vẫn đưa chìa khoá cho tôi nhưng hôm đó hắn giấu tất cả
chìa khoá đi. Tôi mang vài bộ quần áo và trốn khỏi nhà bằng cửa sau không có camera…”81
Câu chuyện trên đã cho thấy quá trình bị buôn bán thường dần dần trở thành cưỡng ép khi ban đầu nạn nhân
có thể hợp tác tự nguyện với các đối tượng nhưng sau đó càng khó có thể chống lại hay tự mình thoát ra được
80 Phỏng vấn riêng, mẹ của nạn nhân bị buôn bán, Đắc Lắc 09/01/2018 81 Phỏng vấn riêng, phụ nữ trẻ, Đắc Lắc 10/01/2018
THẮP SÁNG HY VỌNG
56
hoàn cảnh đó. Một số trở ngại cho việc di chuyển của Linh trong câu chuyện kia không dễ nhìn thấy, ví dụ như
việc không thể nói chuyện vì không có điện thoại hoặc không biết tiếng bên cạnh những thách thức hữu hình
như – bị tra khảo, nhốt trong phòng, bị đe doạ đánh đập. Nhiều người tham gia nghiên cứu cũng cho biết rất
khó để có thể bỏ trốn khi mà họ bị cô lập và không hiểu biết về những thứ xung quanh nơi đó. Một trẻ nạn
nhân đã nhớ lại:
“Rất nguy hiểm. Có rất nhiều con đường mà bọn tôi không biết nên nếu muốn về thì bọn tôi
cũng không biết đi đường nào. Có đường quốc lộ cho ô tô đi nhưng bọn chúng lại đưa bọn tôi
đi đường rừng. Nếu mà đi đường chính thì có thể bọn tôi đã biết cách tìm đường về.”82
Bạo lực là công cụ để kiểm soát nạn nhân
Giống như trường hợp của Linh, các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng bạo lực và đe doạ bạo lực là công cụ được
các đối tượng buôn người thường xuyên sử dụng để cưỡng ép và kiểm soát nạn nhân. Kết quả này được củng
cố chắc chắn từ các cuộc phỏng vấn định tính. Người tham gia phỏng vấn kể lại rằng họ đã bị đánh đập và lạm
dụng tinh thần trong suốt thời gian bị buôn bán, thường đó là các đòn trừng phạt cho việc “không nghe lời”
hoặc tác phong làm việc “không đúng cách” được sử dụng như những công cụ để duy trì quyền lực và kiểm
soát lên nạn nhân. Thông tin được một nam thanh niên bị buôn bán từ lúc 16 tuổi vào mỏ than nhớ lại dưới
đây phần nào minh hoạ cho những nhận định trên:
“Có lần mệt không thể làm việc được, một ông hỏi tôi là tại sao tôi không làm việc, tôi mới
bảo tôi bị đau, thế là anh ta dùng đá đánh vào đây. Nhiều tên canh gác trông như xã hội đen,
tóc dài, xăm trổ. Một người khác thì dùng xẻng đánh tôi. Sau khi cho đá vào máy nghiền vì
mệt quá nên tôi nghỉ tí chút, rồi ông ta hỏi tôi tại sao lại nghỉ ‐ thực ra là ông ta hét vào mặt
tôi – sau đó thì cầm lấy cái xẻng và đánh. Tôi tránh được nhưng vẫn bị đánh. Nhiều người khác
cũng bị đánh, ai chạy chốn mà bị bắt lại sẽ bị đánh thậm chí là giết. Có một anh đã cố gắng bỏ
trốn nhưng bị bắt lại, bị đánh, bị xịt hơi cay…nhưng lần trốn thứ hai thì anh ấy thoát!” 83
Các số liệu nghiên cứu cho thấy nạn nhân bị buôn bán phải chịu bạo lực là điều khá phổ biến. 55.8% người
tham gia trả lời phỏng vấn có các chỉ số buôn bán trẻ em trong quá trình di cư cho biết đã phải trải qua bạo
lực: 52.5% phải chịu bạo lực tinh thần, 25.2% bị đánh đập và 7.23% cho biết bị bạo lực tình dục (trong đó có
5% là bé trai). Phụ nữ trẻ và bé gái được phát hiện là có nguy cơ chịu mọi loại hình bạo lực cao hơn, như mô
tả trong cột dưới đây:
Biểu đồ 7: Trải nghiệm bị bạo lực của trẻ em và thanh thiếu niên
82 Phỏng vấn riêng, nam thanh niên là nạn nhân của buôn bán trẻ em, Huế 12/12/2017 83 Phỏng vấn riêng, nam thanh niên bị buôn bán từ khi còn là trẻ em, Huế 12/12/2017
Tháng 6/2019
57
Điều thú vị ở đây là khi phân tích số liệu khảo sát đã phát hiện ra mối liên hệ giữa phải làm việc trong điều kiện
bị bóc lột với bị bạo lực: trong số những trẻ em và thanh thiếu niên di cư, những người bị bóc lột tiền lương
có nguy cơ chịu một vài hình thức bạo lực cao hơn 2.3 lần những người không bị (p<.001), những ai bị bóc lột
giờ làm cũng có nguy cơ bị bạo lực cao hơn 2,1 lần những người không bị. Dưới góc độ số liệu định tính, mối
liên hệ này cho thấy đối tượng buôn người sử dụng bạo lực như một cơ chế để tăng cường bóc lột lao động.
Số liệu từ khảo sát định tính mô tả hàng loạt các phương thức từ riêng lẻ cho tới có tổ chức nhằm khuất phục
hoặc bắt buộc thanh thiếu niên phải ở lại trong các mối quan hệ bóc lột. Nhiều trẻ em và thanh thiếu niên di
cư bất hợp pháp bị buôn bán cho biết rằng chúng rất sợ cơ quan xuất nhập cảnh và điều này vừa làm gia tăng
quyền lực của đối tượng buôn người lên nạn nhân vừa ngăn cản các nạn nhân tìm kiếm sự giúp đỡ. Trong một
số trường hợp khác, người được hỏi chia sẻ về sự xấu hổ và kì thị xung quanh việc bị buôn bán và điều này
khiến họ e ngại quay trở về cộng đồng.
Các kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng gánh nặng nợ nần là thủ đoạn thường được chủ lao động sử dụng để
ép buộc nạn nhân tiếp tục ở lại làm việc trong điều kiện bị bóc lột. Một số trường hợp nạn nhân bị bắt buộc
phải làm việc để trừ nợ cho khoản chi phí liên quan đến tổ chức chuyến đi và sắp xếp mọi việc. Một số khác
thì được chủ lao động trả tiền trước cho trẻ hoặc cho người nhà của trẻ khiến chúng bị rơi vào mối quan hệ
nợ nần ngay từ khi bước chân ra đi. Một phụ nữ trẻ được hứa hẹn một công việc trong ngành giải trí nhưng
cuối cùng bị bán sang Malaysia làm mại dâm cho biết mẹ của cô đã phải bồi thường tiền vé máy bay thì cô mới
được trả tự do:
5.0%
21.6%
48.8%51.9%
10.1%
28.5%
56.7%59.5%
0.0%
10.0%
20.0%
30.0%
40.0%
50.0%
60.0%
70.0%
Bạo lực tình dục Bạo lực thân thể Bạo lực tinh thần Bất kì hình thức bạo lực nào
% nam thanh niên vàbé trai
THẮP SÁNG HY VỌNG
58
“Sau cùng, không thể chịu đựng được nữa tôi nói với mẹ là sẽ về. Tôi không nói lí do tôi muốn
về mà chỉ bảo không muốn đi làm ở nước ngoài nữa. Tôi đoán mẹ tôi biết chuyện gì đã xảy ra
nên bà bảo sẽ trả mọi chi phí để tôi có thể về nhà.”84
Do tính dễ bị thổn thương về mặt kinh tế vốn đẩy trẻ em và thanh thiếu niên vào hoàn cảnh bị buôn bán ngay
từ đầu nên nhiều người tham gia trả lời phỏng vấn nghiên cứu cho biết, trong nhiều trường hợp, nạn nhân (và
gia đình) không thể gom đủ tiền để trả lại cho các đối tượng buôn người. Một bé gái bị buôn bán vào nhà máy
may nhớ lại:
“Sau 2 tháng em bảo bố mẹ là em muốn về nhà. Bố mẹ cố gắng động viên và bảo: ‘con cố gắng
làm việc hết 1 năm đi vì bố mẹ đã tiêu số tiền đó vào việc khác rồi’” 85.
Kể cả khi gánh nặng nợ nần không phải là chiêu được người chủ sử dụng lao động áp dụng thì trẻ em và thanh
thiếu niên vẫn có khả năng buộc phải ở lại trong hoàn cảnh bị bóc lột do hoàn cảnh kinh tế bi đát của chúng.
Một phụ nữ trẻ bị buôn bán vào xưởng may đã nhớ lại việc cô đã phải quay trở lại xưởng đó khi làm việc lại
sau khi đã quyết định ra đi như thế nào:
Hỏi. Sau một năm, bạn có dễ dàng xin nghỉ việc không?
Không có khó khăn gì. Họ trả tôi tiền rồi đưa tôi về nhà, nhưng họ cũng lừa tôi bảo quay lại sẽ trả lương
cao hơn. Họ hứa là tôi có thể được nghỉ làm sớm nhưng đó chỉ là nói thế chứ tôi biết lúc quay lại thì
cũng vẫn như cũ và tôi sẽ phải làm việc cả ngày Thứ Bảy. Nhưng tôi đã đồng ý vì tôi nghĩ là không thử
thì làm sao mà biết được, nhỡ đâu lại có kết quả, cho nên tôi đã quay lại làm cho nhà đó ba năm. Vừa
là buồn, vừa là vui nhưng buồn và lo lắng thì nhiều hơn…
Hỏi. Thế điều kiện làm việc có đúng là được cải thiện không hay là vẫn như cũ?
Sức chịu đựng của tôi được cải thiện thì đúng hơn – điều kiện làm việc vẫn thế nhưng tôi nhận ra rằng
mục đích của tôi là kiếm tiền phụ giúp gia đình cũng như nâng cao tay nghề để có thể ra làm riêng nên
tôi cố chịu đựng và tiến về phía trước.86
Trường hợp trên có lẽ đã giải thích cho những kết quả trái đầy mâu thuẫn liên quan đến sự đồng thuận của
trẻ khi bước chân vào hoặc thoát ra khỏi các mối quan hệ bóc lột. Một khi trẻ và gia đình trẻ thiếu các cơ hội
sinh kế thay thế khả thi, chúng có nhiều khả năng ở lại trong các mối quan hệ bóc lột bất kể điều đó nguy hiểm
ra sao. Điều này cũng tương thích với kết quả cho rằng tổn thương về kinh tế tính đến thời điểm này vẫn là
nhân tố quan trong nhất tác động tới khả năng một đứa trẻ bị buôn bán.
Tác động của bị bóc lột
Bên cạnh việc thu thập bằng chứng về các trải nghiệm bị buôn bán của trẻ em và thanh thiếu niên trong quá
trình di cư, khảo sát trong nghiên cứu này cũng được thiết kế nhằm thu thập các thông tin liên quan đến mức
84 Nữ nạn nhân bị bán vào một quán Bar ở Malaysia lúc 17 tuổi, Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh 85 Phỏng vấn riêng, phụ nữ trẻ bị buôn bán từ khi còn bé tại Huế, 08/09/2017 86 Phỏng vấn riêng, phụ nữ trẻ bị buôn bán từ khi còn bé tại Huế, 08/09/2017
Tháng 6/2019
59
độ sức khoẻ tinh thần tại thời điểm hiện tại (thời điểm khảo sát) của nạn nhân. Người tham gia trả lời phỏng
vấn được hỏi về các vấn đề liên quan đến các khía cạnh của sức khoẻ tinh thần bao gồm sức khoẻ thể chất và
tâm lý, khả năng ứng phó, hoà nhập xã hội, sự tự tin, hiệu quả của việc thay đổi, vv. Thước đo tổng thể về mức
độ sức khoẻ tinh thần nói chung sẽ dựa trên số điểm đánh giá cho phần trả lời của từng cá nhân riêng lẻ. Điểm
số này cũng sẽ được phân tích để hiểu sâu hơn về hệ quả đối với từng người trên cơ sở các nhân tố khác.
Chương tái hoà nhập hậu thời kì bị buôn bán dưới đây sẽ khai thác kĩ hơn những khía cạnh khác nhau về sức
khoẻ tinh thần của những người tham gia trả lời phỏng vấn. Điều đáng chú ý ở đây là những người được hỏi
có chỉ số buôn bán trẻ em có sức khoẻ tinh thần kém hơn hẳn so với mặt bằng dân số nói chung khiến dự đoán
rằng buôn bán trẻ em mang lại những hậu quả tiêu cực về mặt tinh thần cho nạn nhân. Bên cạnh đó, điều
đáng nói ở đây là, việc phân tích các dữ liệu khảo sát cho thấy mối quan hệ nói trên chủ yếu là trải nghiệm bị
bạo lực của nạn nhân: bạo lực phần lớn là câu trả lời cho mối quan hệ (tiêu cực) giữa buôn bán người và sức
khoẻ tinh thần khi kiểm soát các yếu tố khác (như tuổi, dân tộc, ngành nghề, giới, điểm số về hoàn cảnh kinh
tế) cho thấy bị bạo lực đặc biệt gây hại cho nạn nhân. Kết quả này chỉ ra rằng buôn bán người gây thiệt hại
nặng nề nhất nếu bạo lực là công cụ kiểm soát được sử dụng để bắt buộc trẻ em phải ở lại trong các mối quan
hệ bóc lột, ngụ ý rằng, thậm chí những hình thức bóc lột nặng nề khác của buôn bán người vẫn có thể được
dung thứ hoặc ít nguy hại hơn nếu nạn nhân vẫn có một mức độ tự chủ nhất định trong việc đưa ra quyết định
sẽ tiếp tục ở lại làm việc – một quyết định được xem là hợp lý trong hoàn cảnh và các lựa chọn thay thế của
họ.
THẮP SÁNG HY VỌNG
60
7. Hậu thời kì buôn bán: trải nghiệm tái hoà nhập và tiếp
cận dịch vụ hỗ trợ
Phần lớn đều đồng ý rằng buôn bán người gây ra các tác động nguy hại tới trẻ em và thanh thiếu niên. Như
đã đề cập trong Chương 3 của báo cáo này, mặc dù công tác hỗ trợ nạn nhân đã nhận được nhiều sự quan
tâm và có các nguồn lực hỗ trợ, song số lượng nạn nhân được xác định và phục hồi thành công chiếm một tỷ
lệ rất khiêm tốn so với mức độ (ước lượng) của vấn đề. Chương này tập trung khai thác những điều nói trên
tại Việt Nam thông qua việc đưa ra các bằng chứng về trải nghiệm hậu thời kì bị buôn bán của nạn nhân. Đặc
biệt sẽ tập trung xem xét những hệ quả sức khoẻ tinh thần của trẻ em và thanh thiếu niên bị buôn bán cũng
như khai thác trải nghiệm của họ trong quá trình tái hoà nhập cộng đồng; xem xét việc tiếp cận các dịch vụ hỗ
trợ và nhằm mục đích cho biết ai được hỗ trợ và tại sao; và xem xét mức độ các dịch vụ hỗ trợ nạn nhân bị
buôn bán được thiết kế đến đâu để đáp ứng nhu cầu của nạn nhân cũng như hỗ trợ họ hồi phục.
7.1. Sức khoẻ tinh thần bị giảm sút
Những tác động của việc bị buôn bán đến sức khoẻ thể chất và tinh thần của trẻ em được ghi lại khá đầy đủ.87
Các phân tích về hệ quả đối với nạn nhân bị buôn bán trở về đã cho thấy việc bị buôn bán đã làm suy giảm
một loạt các khía cạnh của sức khoẻ tinh thần ra sao. Điều đáng lưu ý là sang chấn tinh thần và thể xác, lạm
dụng liên tục và sự sợ hãi có nguy cơ nghiêm trọng đối với sự phát triển thể chất, tâm lý, tinh thần và cảm xúc
xã hội của trẻ. 88 Các bằng chứng thu được từ phân tích dữ liệu khảo sát cũng chứng minh cho những tác động
này. Người bị buôn bán trở về có sức khoẻ tinh thần thấp hơn rõ rệt so với phần đông dân số nói chung. Chẳng
hạn, người được khảo sát có dấu hiệu bị buôn bán trẻ em có nhiều khả năng nói rằng họ ‘cảm thấy thấp kém’
hơn những người khác (hồi quy thứ tự p<.001), nhiều khả năng thuật lại cảm giác căng thẳng, giận dữ, lo lắng
(hồi quy thứ tự p<.001) hoặc trầm cảm (hồi quy thứ tự p<.001) khi so sánh với số đông dân số.
87 Xem ví dụ, Rafferty, Y., “Tác động của Buôn bán người lên Trẻ em: Khía cạnh Tâm lý và Chính sách Xã hội”, Khía cạnh Phát triển Trẻ em, 2:1. 88 Xem ví dụ, Rafferty, Y., “Tác động của Buôn bán người lên Trẻ em: Khía cạnh Tâm lý và Chính sách Xã hội”, Khía cạnh Phát triển Trẻ em, 2:1.
Tháng 6/2019
61
Hình 6: Người tham gia trả lời phỏng vấn có chỉ số bị buôn bán cho biết bị suy giảm sức khoẻ tinh
thần
Người sống sót sau buôn bán và người chăm sóc họ được phỏng vấn trong nghiên cứu này đều mô tả một
cách nhất quán việc bị buôn bán đã tác động đến sức khoẻ tinh thần và tâm lý của nạn nhân ra sao. Một phụ
nữ trẻ bị buôn bán sang Cambodia từ khi còn nhỏ đã cho biết, “đôi khi tôi cảm thất rất tồi tệ và tôi khóc. Mẹ
tôi cũng khóc.” 89 Tương tự, mẹ của một nạn nhân bị buôn bán nói với nhóm nghiên cứu, “về phần con gái tôi,
từ ngày nó về đến giờ, hình như nó không được bình thường.” 90
Một cán bộ của trung tâm bảo trợ xã hội cho biết về mức độ nghiêm trọng của sang chấn mà người sống sót
sau buôn bán phải trải qua trong một số trường hợp:
“Một vài trẻ có tâm lý bất ổn khi đến [trung tâm]. Chẳng hạn như một trẻ đã từng bị lạm dụng
hay bị đau đầu và luôn khóc mỗi khi nhớ lại quá khứ của mình. Cô bé cũng luôn cúi mặt và đeo
89 Phỏng vấn riêng, phụ nữ trẻ bị buôn bán từ bé, Sóc Trăng, 13/01/2018 90 Phỏng vấn riêng, mẹ của trẻ bị buôn bán, Bắc Giang 21/12/2017
Người trả lời có chỉ số buôn
bán trẻ em NHIỀU KHẢ NĂNG
‘đồng ý’ rằng họ cảm thấy thấp
kém so với người khác cao hơn
4.8 lần khi so sánh với dân số nói
chung
THẮP SÁNG HY VỌNG
62
khẩu trang mỗi khi gặp mọi người. Đó là nỗi sợ hãi bị lạm dụng. Cô bé nói luôn sợ sệt khi nghĩ
về khoảng thời gian còn ở bên Trung Quốc.”91
Bị buôn bán đưa đến một loạt các hệ quả tiêu cực cho nạn nhân, tuy nhiên, phân tích các số liệu khảo sát cho
thấy phần lớn nạn nhân trở về sau buôn bán có sự tổn thương tinh thần ở một vài hình thức. Tổn thương tinh
thần được tìm thấy ở mọi nhóm đối tượng khác nhau, bao gồm ở cả bé trai và bé gái bị buôn bán, người di cư
trong và ngoài nước có dấu hiệu bị buôn bán trẻ em và thanh thiếu niên có dấu hiệu bị buôn bán vào ngành
công nghiệp tình dục cũng như những ngành nghề khác.
7.2. Thách thức trong tái hoà nhập
Trẻ bị buôn bán thường phải vật lộn để tái hoà nhập lại với cuộc sống ở cộng đồng do hậu quả của việc suy
giảm sức khoẻ tinh thần cũng và những yếu tố khách quan như kì thị tạo ra một môi trường không mấy chào
đón trẻ.92 Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng tái hoà nhập kinh tế và xã hội của người bị buôn bán trở về đều
gặp nhiều thách thức; người có dấu hiệu bị buôn bán trẻ em tham gia khảo sát có ít khả năng nói họ cảm thấy
được cộng đồng chào đón khi so sánh với phần đông dân số (phương pháp hồi quy thứ tự, p<.005). Các nhà
cung cấp dịch vụ nhấn mạnh rằng những thách thức tái hoà nhập của người bị buôn bán trở về thường liên
quan đến những khó khăn về tâm lý dẫn đến sự trốn tránh xã hội và cảm xúc, khả năng vận động và ứng phó
thấp, thậm chí trong một số trường hợp cực đoan, tự gây hại cho bản thân hoặc tự tử:
“Nhìn chung khi trở về, người bị buôn bán không có công việc ổn định vì giai đoạn đầu họ vẫn
có những vết thương tâm lý nên không thể tìm được việc làm..”93
..
“Hỏi. Trẻ bị buôn bán khi quay về cộng đồng gặp những khó khăn gì?
Rất nhiều khó khăn. Trong đó nổi bật nhất là những vấn đề về tinh thần. Có trường hợp nạn
nhân không ra khỏi nhà trong 6 tháng liền. Cô ấy đã tự tử kể cả sau khi đã tham gia vào một
nhóm tự lực…”94
Các nhà cung cấp dịch vụ nhấn mạnh nhu cầu cần thiết phải cá nhân hoá các dịch vụ hỗ trợ nạn nhân nhằm
cải thiện khả năng ứng phó và cuối cùng là vượt qua những khó khăn về tinh thần và cảm xúc của nạn nhân để
từ đó tái hoà nhập thành công. Nội dung này sẽ được khai thác sâu hơn ở phần sau, tuy nhiên, những hỗ trợ
kiểu như này, trong thực tế, thường không có hoặc rất khó để tiếp cận.
Kể cả khi trẻ em và thanh thiếu niên là nạn nhân có thể vượt qua được những cú sốc tinh thần là hậu quả của
việc bị buôn bán thì chúng vẫn phải vật lộn để tái hoà nhập vì nhiều lí do khách quan. Những người đã tham
91 Phỏng vấn riêng, Cán bộ trung tâm bảo trợ xã hội, Lào Cai 28/11/2017 92 Để biết thêm chi tiết về nghiên cứu trải nghiệm tái hoà nhập của nạn nhân ở khu vực Tiểu vùng sông Mê Kông, xem: Surtees, R. (2013). Hậu buôn bán: Trải nghiệm và Thách thức trong tái hoà nhập cộng đồng của người bị buôn bán trong khu vực Tiểu vùng sông Mê Kông. Báo cáo tóm tắt. Bangkok: UNIAP/NEXUS Institute 93 Phỏng vấn riêng, Chi cục Phòng chống Tệ nạn Xã hội, Đắc Lắc 07/01/2018 94 Phỏng vấn riêng, Chi cục Phòng chống Tệ nạn Xã hội, Đắc Lắc 07/01/2018
Tháng 6/2019
63
gia vào nhiều nghiên cứu khác cũng như nghiên cứu này đều khẳng định sự kì thị xung quanh nạn nhân bị
buôn bán là một rào cản đối với quá trình tái hoà nhập cộng đồng, làm gia tăng tổn thương đến sức khoẻ tinh
thần và cảm xúc của họ. Một cán bộ làm việc trong cơ sở hỗ trợ nạn nhân ở Lào Cai cho biết thêm, “khi họ trở
về cộng đồng, người ta thường xì xào, bàn tán khiến họ không thoải mái.”95 Nhiều người tham gia phỏng vấn
trong nghiên cứu cũng cho hay về cảm giác bị phán xét và tẩy chay:
“Những người bạn cũ của tôi không muôn chơi với tôi nữa thế nên tôi không kể cho ai nghe về
câu chuyện của mình.”96
…
“Nhiều lúc em chỉ muốn tự tự…bởi vì khi em đi Trung Quốc, hàng xóm có biết cho nên họ sẽ
nói nhiều thứ không hay về em.”97
Một số trường hợp người được phỏng vấn cho biết họ bị chính các thành viên trong gia đình chối bỏ:
“Ngay từ lúc bước chân về nhà em có cảm giác cha em có gì đó xa cách – ông không còn gần
gũi, yêu thương em như trước nữa.” 98
…
“Lúc còn ở Trung Quốc em đã lo sợ là không bao giờ còn cơ hội gặp lại cha mẹ mình nữa…Em
chỉ muốn gặp họ. Nhưng khi em về, chứng kiến thái độ của cha mẹ đối với mình, em lại nghĩ
nếu em mà biết thế này thì thà em ở lại Trung Quốc còn hơn. Bố em thay đổi thái độ với em
và điều đó khiến em rất buồn.”99
Một cán bộ chức năng ở tỉnh Đắc Lắc cho biết thực tế này không phải là cá biệt:
“Khi trẻ em là nạn nhân về nhà, gia đình thường trách mắng, chửi rủa và buộc tội chúng. Tôi
đã từng nhìn thấy một bé gái vừa khóc vừa chạy ra ôm lấy mẹ nhưng bà mẹ đẩy cô bé ra rồi
quát mắng nó.”100
Thực vậy, nhiều người được hỏi cho rằng trong khi đã có nhiều nỗ lực đáng ghi nhận đổ ra để nâng cao nhận
thức của cộng đồng về các nguy cơ của nạn buôn người thì cũng rất cần phải có sự nhạy cảm và nâng cao nhận
thức cho gia đình và cộng đồng để thúc đẩy tái hoà nhập thành công cho nạn nhân.
Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy sự kì thị xung quanh việc bị buôn bán chứa đựng yếu tố phân biệt giới
nặng nề, theo đó phụ nữ và bé gái bị kì thị hơn nam giới và bé trai do chuẩn mực xã hội cho rằng phụ nữ thì
95 Phỏng vấn riêng, cán bộ TTBTXH tỉnh Lào Cai, 28/11/2017 96 Phỏng vấn riêng, phụ nữ trẻ bị buôn bán từ khi còn bé, Đắc Lắc 08/01/2018 97 Phỏng vấn riêng, bé gái bị buôn bán, TTBTXH tỉnh Lào Cai, 27/11/2017 98 Phỏng vấn riêng, phụ nữ trẻ bị buôn bán từ khi còn bé, Lào Cai, 29/11/2017 99 Phỏng vấn riêng, phụ nữ trẻ bị buôn bán từ khi còn bé, Lào Cai, 28/11/2017 100 Phỏng vấn riêng, Chi cục PCTNXH tỉnh Đắc Lắc, 07/01/2018
THẮP SÁNG HY VỌNG
64
nên ở trong nhà và bản năng giới tính của họ phải được kiểm soát. Quan điểm này được minh hoạ thông qua
hồi ức của một phụ nữ trẻ bị bán sang Trung Quốc từ khi còn là một bé gái:
“Hỏi. Mọi người trong xóm đối xử với em như thế nào khi em trở về?
Họ nói em là gái mại dâm. Họ không thích em và hay thêu dệt về em. Hàng xóm thường hay
nói xấu em.
Hỏi. Em phản ứng thế nào?
Em rất tức giận. Em nói với họ ‐ làm sao anh chị biết tôi đã làm gì? Tại sao lại nói như thế…Họ
nói có lời đồn như vậy.
Hỏi. Mất bao lâu thì họ thôi không nói thế nữa?
Đến khi em lập gia đình”.101
Dưới các định kiến xã hội vốn hạn chế quyền tự chủ của phụ nữ và kìm nén vai trò của họ trong gia đình, phụ
nữ và bé gái di cư tự do thường phải đối mặt với những lời đồn và xì‐căng‐đan khi họ trở về. Như trong trường
hợp kể trên, người phỏng vấn cho biết lấy chồng được xem là giải pháp xã hội phù hợp cho nạn nhân trở về.
Một nhà cung cấp dịch vụ cho biết thêm, “Nhiều người trong số họ kết hôn ngay lập tức vì họ cảm thất bị xúc
phạm và đánh mất danh dự cho nên họ dễ dàng chấp nhận lời cầu hôn của bất cứ người đàn ông nào.”102 Điều
khó hiểu là, người tham gia phỏng vấn kể về một số trường hợp phụ nữ trẻ bị cho là ‘tổn hại’ nặng nề và không
có triển vọng kết hôn đến mức họ tái bị buôn bán với sự đồng thuận từ gia đình.
Nhìn chung, thách thức trong tái hoà nhập cộng đồng của nạn nhân thường được cộng dồn bởi các yếu tố như
đói nghèo và thiếu các cơ hội kinh tế khiến họ dễ bị buôn bán ngay từ đầu. Các bên liên quan đều cho rằng tái
hoà nhập khó mà thành công khi những nhân tố dễ bị tổn thương không được giải quyết và, trong một số
trường hợp, nó còn dẫn đến việc tái bị buôn bán:
“Trên thực tế, đã có những trường hợp sau khi được giải cứu lại gặp phải những khó khăn
trong việc tái hoà nhập cộng đồng. Thế là họ lại quyết định đi sang bên kia biên giới. Tuy nhiên
chúng tôi không thể nói được rằng đó có phải là bị buôn bán hay không. Đã có rất nhiều trường
hợp nạn nhân lại trở thành đối tượng buôn người.”103
..
“Có những trẻ em, sau 2 năm bị buôn bán, quay về lừa và bán những trẻ em khác. Có những
đứa trẻ bị tái buôn bán vì gia đình chúng không có đủ điều kiện. Những năm trước đây đã có
101 Phỏng vấn riêng, phụ nữ trẻ bị buôn bán từ lúc còn bé, Huế 12/12/2017 102 Phỏng vấn riêng, cán bộ TTBTXH Lào Cai, 28/11/2017 103 Phỏng vấn riêng, Bộ đội Biên phòng và Cảnh sát Biển, 13/10/2017
Tháng 6/2019
65
[nhiều vụ việc] nhưng gần đây thì giảm vì chúng tôi đã bắt đầu hợp tác với trẻ, cung cấp chỗ
ở và các cơ hội học hành cho trẻ.”104
Điều này nhấn mạnh nhu cầu cần phải có các dịch vụ chuyên biệt, cá nhân hoá và ổn định để hỗ trợ người bị
buôn bán trở về tái hoà nhập cộng đồng và giải quyết bất kì những tổn hại thể chất và tâm lí là hậu quả của
việc bị buôn bán cũng như bất kì các điều kiện cơ bản nào làm gia tăng tính dễ bị tổn thương ở trẻ.
7.3. Tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ
Rõ ràng là phần lớn người bị buôn bán trở về đều có nhu cầu được hỗ trợ để vượt qua những tổn thương tinh
thần cũng như (tái) hoà nhập cộng đồng thành công. Bằng chứng cho thấy tiếp cận các dịch vụ trợ giúp ở Việt
Nam còn nhiều hạn chế, tuy nhiên, phần lớn trẻ em và thanh thiếu niên bị buôn bán chưa bao giờ tìm đến các
dịch vụ trợ giúp: Cứ 10 người có dấu hiệu bị buôn bán trẻ em được hỏi trong khảo sát hộ gia đình thì có ít hơn
1 người (9.5%) nói rằng họ đã nhận một vài hình thức hỗ trợ.
Hình 7: Tỷ lệ người tham gia trả lời phỏng vấn có chỉ số buôn bán trẻ em đã tiếp cận các dịch vụ hỗ
trợ
104 Phỏng vấn riêng, Chi cục PCTNXH tỉnh Lào Cai, 28/11/2017
CỨ 10 NGƯỜI trả lời có chỉ số
buôn bán trẻ em thì CÓ ÍT HƠN 1
NGƯỜI
nói rằng họ đã nhận một vài hình
thức hỗ trợ
THẮP SÁNG HY VỌNG
66
Thêm vào đó, việc phân tích xem những cá nhân nào nhận hỗ trợ đã cho thấy các hỗ trợ dành cho nạn nhân
bị buôn bán, trong đó đặc biệt là dịch vụ hỗ trợ nơi tạm trú, có xu hướng chỉ tập trung vào một hồ sơ nạn nhân
nhất định. Bằng chứng cũng chỉ ra rằng một số người bị buôn bán trở về có nhiều khả năng tiếp cận các dịch
vụ hậu buôn bán hơn những người khác. Ví dụ, những nữ nạn nhân được đề cập là những đại diện có tỷ lệ
chưa cân đối trong các dịch vụ hỗ trợ nạn nhân: có đến hơn một nửa (58.3%) người có dấu hiệu bị buôn bán
trẻ em được khảo sát trong Điều tra Hộ gia đình Thanh thiếu niên là nam giới nhưng chỉ có một phần tư (26.5%)
những người được nhận các dịch vụ hỗ trợ là nam nạn nhân. Các dịch vụ hỗ trợ nạn nhân cũng được xem là
chủ yếu dành cho những nạn nhân đã từng bị buôn bán vào ngành công nghiệp tình dục. (Mặc dù kết quả này
có thể phần nào được giải thích là do thiếu con số báo cáo cụ thể về những người hoạt động mại dâm, nhưng
cũng có khả năng cao là thực tế những người bị buôn bán vào ngành công nghiệp tình dục dễ được công nhận
là nạn nhân hơn những người bị buôn bán vào các ngành nghề khác). Nhìn chung, nạn nhân bị buôn bán qua
biên giới cũng có nhiều khả năng tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ hơn những nạn nhân bị buôn bán nội địa: trong
khi chỉ có một trong mười người (10.4%) được hỏi có dấu hiệu bị buôn bán trẻ em hoặc cưỡng bức hoặc bóc
lột trong khi di cư là bị buôn bán khi di cư ra nước ngoài thì có đến hơn ba phần tư (79.1%) số nạn nhân được
nhận các dịch vụ trợ giúp là nạn nhân bị buôn bán qua biên giới.
Nhìn chung, các kết quả khảo sát cho thấy các dịch vụ hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán chỉ tập trung vào một dạng
nạn nhân nhất định: điển hình là nạn nhân nữ bị buôn bán qua biên giới làm vợ hoặc làm mại dâm. Những
nhóm có nguy cơ khác như nam công nhân làm việc tại các công trường xây dựng, dịch vụ hoặc đánh bắt hải
sản hoặc những người bị buôn bán nội địa thường nhận được ít sự quan tâm hơn.
Có nhiều khả năng lý giải cho sự khác biệt này. Như sẽ được đề cập sâu hơn dưới đây, có rất nhiều yếu tố
ngoại cảnh từ cả phía cung và cầu dịch vụ tạo ra các rào cản cho việc tiếp cận dịch vụ hỗ trợ của mọi nạn nhân
và điều này có thể có những tác động cụ thể lên trẻ em, nam giới và nạn nhân bị buôn bán trong nội địa và
người bị buôn bán để bóc lột sức lao động. Tuy nhiên, các kết quả cũng cho thấy rằng các dịch vụ hỗ trợ nạn
nhân thường được thiết kế và nhắm đến hỗ trợ một “dạng nạn nhân” nhất định: nguyên mẫu văn hoá thắng
thế này có xu hướng thống trị các nỗ lực phòng ngừa và ứng phó với buôn bán người. Giống như Anderson đã
giải thích:
‘Nạn nhân của buôn bán người trước hết được tưởng tượng là một cô gái hoặc một phụ nữ di
cư bị ép buộc làm mại dâm…Lấy mại dâm như một điểm khởi đầu đã nhấn mạnh sự thống trị
của mối quan hệ giới và đã từ rất lâu luôn cho nằng nạn nhân là nữ còn thủ phạm là nam.’
(2014).
7.4. Rào cản tiếp cận dịch vụ: hạn chế trong nhận diện nạn nhân
Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy trẻ em và thanh thiếu niên bị buôn bán gặp những rào cản nhất định từ
đầu cung trong tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ. Cụ thể, các nhà cung cấp dịch vụ cho biết rất khó để nạn nhân có
được giấy chứng nhận chính thức là nạn nhân bị buôn bán – vốn là điều kiện cần để có thể tiếp cận dịch vụ.
Chương IV ‐ Luật Phòng, chống Mua bán người của Việt Nam quy định việc xác minh và xác định nạn nhân là
điều kiện để tiếp cận dịch vụ, các biện pháp bảo đảm an toàn, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân trong đó có chỗ lưu
Tháng 6/2019
67
trú tạm thời, hỗ trợ tài chính, trợ giúp pháp lý, tham vấn và hỗ trợ tâm lý.105 Để chứng minh là nạn nhân đã
được xác định, người đó phải có giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền cấp. Điều 28 ‐ Luật Phòng chống Mua bán
người quy định các giấy tờ chứng minh là nạn nhân gồm:
‘giấy xác nhận của cơ quan công an huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; Giấy xác nhận
của cơ quan giải cứu theo Điều 25 của Luật này, gồm công an, biên phòng, cảnh sát biển; Giấy
xác nhận của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân; và Giấy tờ, tài liệu do cơ quan nước ngoài cấp
đã được cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài hoặc Bộ Ngoại giao Việt Nam hợp pháp hóa
lãnh sự chứng minh người đó là nạn nhân.’106
Hiểu theo cách khác, luật của Việt Nam quy định người bị buôn bán người phải được các cơ quan thực thi
pháp luật công nhận chính thức là nạn nhân thì mới được tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ dành cho nạn nhân bị
buôn bán.
Nhiều nhà cung cấp dịch vụ được hỏi trong nghiên cứu này trong đó có cả các đại diện đến từ các tổ chức Phi
chính phủ và Chính phủ, cho biết giấy chứng nhận nạn nhân này rất khó để có được, đặc biệt là những nạn
nhân tự trở về. Một cán bộ quản lý ca của một tổ chức Phi chính phủ cho biết thêm, “đối với những trường
hợp có giấy chứng nhận là nạn nhân do biên phòng cấp thì mọi việc rất đơn giản – công an không cần điều tra
thêm. Nhưng khi họ tự trở về thì công an phải điều tra về trường hợp của họ để cấp giấy chứng nhận là nạn
nhân [và họ có thể được nhận hỗ trợ] ”.107 Tương tự, khi được hỏi về những khó khăn khi hỗ trợ các trường
hợp bị buôn bán, một cán bộ từ Sở Lao động Thương binh Xã hội cho biết:
“Có rất nhiều khó khăn, đặc biệt là ở những nạn nhân tự trở về ‐ rất khó để chứng minh họ là
nạn nhân…Việc trợ giúp cho những người không được xác định là nạn nhân gặp là rất khó.”108
Một cán bộ xã hội của tỉnh Bắc Giang cho biết thêm:
“Việc xác định nạn nhân là rất quan trọng, kể cả với trẻ em. Theo như bên công an, nếu họ
được xác định là nạn nhân, họ sẽ được nhận hỗ trợ. Nếu không, chúng tôi cũng không thể làm
gì cho họ, không chỉ là với người lớn mà kể cả là với trẻ em”.109
Những nhận định trên được khẳng định lại bởi các kết quả nghiên cứu định lượng theo đó cho thấy những trẻ
nạn nhân được giải cứu bởi các cơ quan chức năng và có giấy chứng nhận là nạn nhân có nhiều khả năng được
nhận các dịch vụ hỗ trợ hơn những trẻ tự trở về: 57.5% người được hỏi trong khảo sát người thụ hưởng cho
biết đã được giải cứu và tất cả họ đều được nhận các dịch vụ trợ giúp so với hầu như không hoặc rất ít thanh
thiếu niên bị buôn bán trong khảo sát hộ gia đình được tiếp cận dịch vụ.
105 Luật số: 66/2011/QH12 về Phòng, chống Mua bán người 106 Luật số: 66/2011/QH12 về Phòng, chống Mua bán người 107 Phỏng vân riêng, Cán bộ quản lý ca của một tổ chức Phi chính phủ, Hà Nội 03/10/2017 108 Phỏng vân riêng, Chi cục PCTNXH, Huế 13/12/2017 109 Phỏng vân riêng, Cán bộ xã hội, Bắc Giang 22/12/2017
THẮP SÁNG HY VỌNG
68
Theo đại diện Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, ý thức được những khó khăn trên, chính phủ đã có nhiều
biện pháp để nới rộng chính sách trong xác minh, xác định nạn nhân:
“kể từ khi có thông tư liên ngành năm 2014 ra đời, giấy chứng nhận là nạn nhân không còn là
thủ tục bắt buộc. Nạn nhân tự trở về vẫn có thể được nhận hỗ trợ.”110
Tuy vậy, trên thực tế, Thông tư này xem ra không được vận dụng đúng như vậy. Khi được hỏi về những thay
đổi là kết quả của việc thực hiện thông tư, một nhà cung cấp dịch vụ cho biết:
“Thực tế khi tôi đi xuống cộng đồng nạn nhân cần có giấy chứng nhận để nhận hỗ trợ ‐ 3 triệu
đồng. Kể cả khi có thông tư mà không có hướng dẫn triển khai như nào thì [những cán bộ hỗ
trợ] này không làm gì cả. Một số trường hợp chúng tôi vẫn được nói là – ‘cô ấy không có giấy
chứng nhận nên không được coi là nạn nhân’”. 111
Thực vậy, trong một hội thảo tham vấn về ứng phó với nạn buôn bán người được tổ chức vào tháng 10/2018,
nhiều đại biểu nhấn mạnh những vấn đề xung quanh việc xác minh, xác định nạn nhân tiếp tục gặp nhiều thách
thức và vẫn có nhiều cán bộ chức năng và những nhà cung cấp dịch vụ vẫn cho rằng trẻ phải trình ra được giấy
chứng nhận là nạn nhân thì mới được tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ.
7.5. Rào cản từ phía nạn nhân trong tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ
Ít có nhu cầu nhận hỗ trợ cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế tiếp cận dịch vụ. Nhiều người
được hỏi cho biết người bị buôn bán trở về và gia đình họ không quan tâm hoặc thậm chí từ chối nhận hỗ trợ.
Cụ thể, những kết quả cũng cho thấy sự kì thị xung quanh việc bị buôn bán khiến nạn nhân e ngại nói ra câu
chuyện của mình, được xác định là ‘nạn nhân’ và từ đó tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ. Chẳng hạn, khi được hỏi
tại sao không tìm kiếm sự trợ giúp hoặc các hỗ trợ khi về Việt Nam, một phụ nữ trẻ bị buôn bán sang Malaysia
từ lúc còn trong độ tuổi trẻ em nói với nhóm nghiên cứu: “tôi nghĩ rằng nếu mọi người biết tôi đi nước ngoài
họ sẽ nghĩ là tôi đi làm những công việc không đàng hoàng.”112
Thực vậy, nhiều bên liên quan được hỏi trong nghiên cứu này cũng khẳng định kì thị là một trong những rào
cản nghiêm trọng tới việc tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ:
“Ban đầu họ gặp nhiều khó khăn – họ không đồng ý gặp chúng tôi. Họ sợ những lời bàn tán.
Họ thấy có lỗi và họ không liên lạc với chúng tôi.”113
..
“Nạn nhân không nhận hỗ trợ vì phân biệt đối xử. Trong suy nghĩ của nhiều người nạn nhân là
những cô gái đua đòi, hư hỏng và họ là gái mại dâm cho nên họ đáng bị như thế.”114
110 Phỏng vấn riêng, Cục CSBVTE, Bộ LĐTBXH, Hà Nội 04/10/2017 111 Phỏng vấn riêng, Quản lý ca của tổ chức Phi chính phủ, Hà Nội 03/10/2017 112 Phỏng vấn riêng, phụ nữ trẻ bị buôn bán từ khi còn bé, Tây Ninh, 18/03/2018 113 Phỏng vấn riêng, Đại diện Hội Phụ nữ, Tây Ninh 20/03/2018 114 Phỏng vấn riêng, Chi cục PCTNXH, Cần Thơ 14/01/2018
Tháng 6/2019
69
..
“ Trên thực tế khi chúng tôi hỗ trợ nạn nhân thì thấy gia đình không muốn nhận hỗ trợ vì họ
muốn giữ kín chuyện con họ đã bị bắt cóc hoặc bị bán – họ từ chối nhận hỗ trợ.”115
Bên cạnh mối lo về việc bị kì thị, chính bản thân những người bị buôn bán cũng không muốn tự nhận mình là
nạn nhận hoặc chủ động từ chối xác định là nạn nhân. Như đã đề cập ở chương tuyển mộ của báo cáo này,
trẻ em và thanh thiếu niên bị rơi vào hoàn cảnh bị buôn bán trong quá trình đi tìm các cơ hội kinh tế hoặc các
cơ hội khác. Trong bối cảnh đó, họ hoàn toàn mong việc di cư đó thành công hoặc được cộng đồng nơi họ sinh
sống xem là thành công cho dù sự thật là họ có thể đã phải chịu sự bóc lột. Động cơ này được nhiều bên liên
quan xác định là một trong những rào cản để khai báo vụ việc:
“Bạn biết đấy – với số tiền mà họ kiếm được từ nước ngoài rồi may mắn trở về, người ta sẽ
không cho họ là nạn nhân. Trên thực tế, họ cũng kiếm được một số tiền kha khá, hơn hẳn
những người ở quê không đi đâu. Và họ cũng không muốn bị nhìn vào như những người thất
bại – kể cả họ đã thực sự gặp khó khăn, nếu họ có bị như vậy thì họ cũng chỉ cho là mình đã
không gặp may!”116
…
“Những người trở về… Họ không muốn nói ra câu chuyện của mình đâu vì trên thực tế họ đã
mất rất nhiều tiền!” 117
Động cơ từ chối xác định là ‘nạn nhân’ hoặc tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ đặc biệt rõ nét ở nam nạn nhân trên
cơ sở những quan điểm thống trị về giới theo đó nam giới được cho là mạnh mẽ, thành công, tự túc và từ chối
các quan điểm về sự tổn thương ở nam giới. Luồng ý kiến này được ghi nhận trong nhiều nghiên cứu về tiếp
cận dịch vụ hỗ trợ của nạn nhân bị buôn bán theo đó đã chỉ ra là đàn ông là một rào cản nghiêm trọng để nam
nạn nhân nhận các dịch vụ hỗ trợ.118
Trên cơ sở buôn bán xuyên biên giới gần như luôn xảy ra trong bối cảnh di cư không thường xuyên, nhiều
người được hỏi cho biết người bị buôn bán trở về chọn cách không nhận hỗ trợ vì họ sợ phải đối mặt với các
hậu quả pháp lý cho việc di cư bất hợp pháp. Một người được phỏng vấn cho biết, “…luật pháp của chúng tôi
không coi họ là nạn nhân… Họ sợ sẽ gặp rắc rối. Họ sẽ chỉ được xem là người vượt biên trái phép.”119 Thực
vậy, với hành vi vi phạm các quy định về di cư ở Việt Nam, sẽ không ngạc nhiên khi người bị buôn bán trở về
phải chịu sự trừng phạt từ chính quyền. Hơn nữa, như nhiều người đã nhận định, ở Việt Nam, trong cách tiếp
cận và ứng phó với nạn buôn bán người, chính phủ ưu tiên việc hình sự hoá các hành vi gây tổn hại đến trật
115 Phỏng vấn riêng, Cục CSBVTE, Bộ LĐTBXH, Hà Nội 04/10/2017 116 Phỏng vấn riêng, Đại điện UNACT Việt Nam, Hà Nội 05/10/2017 117 Phỏng vấn riêng, Đại điện UNACT Việt Nam, Hà Nội 05/10/2017 118 Xem thêm: Surtees, R., ‘Buôn bán nam giới – một xu hướng ít được để ý: Trường hợp của Belarus và Ukraine’, Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM), 2008. 119 Phỏng vấn riêng, Đại điện UNACT Việt Nam, Hà Nội 05/10/2017
THẮP SÁNG HY VỌNG
70
tự (và đạo đức) xã hội thay vì thúc đẩy các quyền và lợi ích của người bị buôn bán, chính điều này cũng ngăn
cản các cá nhân tự nhận mình là nạn nhân.120
Bên cạnh nỗi lo về những hậu quả pháp lý cũng như bị chính quyền phạt, những người được hỏi cho biết người
bị buôn bán trở về cũng lo sợ bị các đối tượng buôn người trả thù nếu hợp tác với các cơ quan chức năng thực
thi pháp luật:
“Họ thường không muốn tố giác tội phạm vì họ sợ phải đến toà án. Một số trường hợp tố cáo
bất thành, nạn nhân sẽ bị trả thù.”121
Những lo lắng này là có cơ sở do thiếu các cơ chế bảo vệ nhân chứng hiệu quả ở một số địa bàn trong nước.
Khi được hỏi liệu có hay không một hệ thống bảo vệ nhân chứng thích hợp để đảm bảo an toàn, an ninh cho
nạn nhân, một nhà cung cấp dịch vụ trả lời: “[Cười] về lí thuyết thì có, nhưng trong thực tế nó còn phụ thuộc
vào quan điểm và khả năng của cán bộ điều tra vụ án."122 Và do vậy, như đã đề cập ở trên, nạn nhân thường
phải trình báo chính thức cho các cơ quan thực thi pháp luật để có đủ điều kiện hoặc tiếp cận các dịch vụ hỗ
trợ, công tác bảo vệ nhân chứng yếu và thiếu nhất quán không chỉ là rào cản để tiếp cận các dịch vụ trợ giúp
pháp lý và theo đuổi công lý mà còn là rào cản để tiếp cận các dịch vụ một cách toàn diện.
7.6. Trải nghiệm tiếp nhận các dịch vụ hỗ trợ
Phương pháp được thiết kế và sử dụng cho nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiểu mối quan hệ giữa các dịch
vụ hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán với các hệ quả về sức khoẻ tinh thần đối với người bị buôn bán trở về đến từ
các hoàn cảnh, các trải nghiệm buôn bán và các đặc điểm nhân khẩu học khác nhau. Tuy nhiên vì có rất ít
người tham gia trả lời phỏng vấn tiếp cận dịch vụ hỗ trợ cũng như những người ở hai khảo sát còn lại và vì bản
chất của những hỗ trợ này là rất đồng bộ nên sẽ rất khó để đưa ra các kết luận khách quan về hiệu quả của
các dịch vụ hỗ trợ. Do vậy, phần dưới đây sẽ chỉ tập trung phản ánh những dịch vụ hỗ trợ nạn nhân sẵn có ở
Việt Nam cũng như trải nghiệm của những người đã được hỗ trợ.
Chương này bao gồm một sơ đồ hoá các dịch vụ hỗ trợ nạn nhân của nhà nước và các tổ chức phi chính phủ
được thiết kế chuyên biệt để đáp ứng nhu cầu của nạn nhân bị buôn bán. Phần lớn các dịch vụ đều được đặt
trong các cơ sở hỗ trợ nạn nhân nơi mà ở đó nạn nhân được cung cấp chỗ ở và nhận một gói các dịch vụ hỗ
trợ cho đến khi nạn nhân có thể trở về với gia đình/cộng đồng. Ngoài việc cung cấp chỗ lưu trú và đáp ứng các
nhu cầu tối thiểu của nạn nhân, các cơ sở hỗ trợ thường có cả hỗ trợ tâm lý/cảm xúc trong đó có tham vấn;
tư vấn hoặc đại diện pháp lý; giáo dục cơ bản, giáo dục dạy nghề cũng như chuyển tuyến nạn nhân tới các cơ
sở y tế và tâm lý chuyên biệt. Ngược lại, các dịch vụ hỗ trợ ở cộng đồng thì rất hiếm. Trong khi phần lớn cán
bộ cơ sở hỗ trợ nạn nhân cho biết có đánh giá nhu cầu của thân chủ, thường chủ yếu tập trung vào việc xác
định các khía cạnh của tái hoà nhập thì đa số các trường hợp vẫn chưa lưu tâm đến một kế hoạch cá nhân hoá
dài hạn trong đó giải quyết các nguy cơ tái bị buôn bán, bị kì thị và bị gạt ra ngoài lề xã hội. Thay vào đó, nếu
120 Vijeyarasa, Ramona, “Nhà nước, gia đình và cụm từ ‘tệ nạn xã hội’: tái kì thị nạn nhân bị buôn bán ở Việt Nam, Văn hoá, Sức khoẻ và Tình dục, 12:1, 2010. 121 Phỏng vấn riêng, Cán bộ TTBTXH, Lào Cai 28/11/2017 122 Phỏng vấn riêng, cán bộ quản lý ca của tổ chức Phi chính phủ, Hà Nội 03/10/2017
Tháng 6/2019
71
có theo dõi hồi gia thì các cơ sở hỗ trợ nạn nhân có xu hướng giới thiệu nạn nhân đến các dịch vụ hỗ trợ tại
cộng đồng khi họ kết thúc thời gian ở trung tâm.
Nhận xét về các dịch vụ hỗ trợ
Điều quan trọng để ghi nhận ở đây là phần lớn người đã tiếp cận dịch vụ được hỏi cho biết là họ thấy hài lòng
với những hỗ trợ đã được nhận. Khi được hỏi đánh giá về mức độ hài lòng, 95% số người được hỏi trong Khảo
sát Người thụ hưởng và 78% người được hỏi trong Khảo sát Hộ gia đình Thanh thiếu niên đã nhận hỗ trợ cho
biết họ thấy những hỗ trợ đó rất có ích. Một số người hưởng lợi được phỏng vấn đã mô tả những trải nghiệm
rất tích cực và nhiều người bày tỏ đánh giá cao và sự hài lòng nói chung về các dịch vụ hỗ trợ:
“Hỏi. Trong hai năm qua, bạn đã được nhận những hỗ trợ gì?
Tôi được hỗ trợ ăn uống, chỗ ở, vé tàu xe đến trung tâm và đồ dùng học tập. Tôi có thể ăn
uống thoải mái vì ở đây tôi sống với những người cùng cảnh ngộ nên không có sự ghen tị và
chúng tôi sống hoà thuận với nhau.
Hỏi. Nếu cho điểm từ 1 đến 10, bạn đánh giá thế nào về mức độ hài lòng đối với các hỗ trợ
bạn đã được nhận kể từ khi quay về?
Tôi cho 10 vì đến đây cho phép tôi tiếp tục được học hành và theo đuổi giấc mơ của mình…
Họ đáp ứng mọi thứ mà tôi cần.”123
…
“Hỏi. Kí ức đáng nhớ nhất của bạn về Ngôi nhà Bình yên là gì?
Đó là một nơi an toàn và vui vẻ. Nó như ngôi nhà thứ hai của tôi vậy…chẳng có gì phải phàn
nàn cả.124”
Giống như những gì đã trích dẫn ở trên, rất hiếm khi người hưởng lợi được hỏi chỉ ra lỗ hổng trong các dịch
vụ hỗ trợ được nhận mà thường khẳng định rằng mọi nhu cầu của họ đã được đáp ứng. Thực vậy, khi cố dò
hỏi để họ đưa ra các nhận xét mang tính bình luận về những hỗ trợ đó thì nhiều người lại trả lời rằng họ tự
cảm thấy phải chịu trách nhiệm cho việc bị buôn bán, cảm thấy không xứng đáng được trợ giúp chính vì vậy
họ cảm thấy biết ơn khi nhận được bất kì hỗ trợ nào.
Tuy nhiên, người hưởng lợi cũng đánh giá cao một số hỗ trợ nhất định. Nhìn chung, các trợ giúp pháp lý và
tâm lý được cho là có giá trị với người hưởng lợi, trong khi đó những hỗ trợ liên quan đến giáo dục và học
nghề chưa đạt được mong đợi. Sở dĩ như vậy là do trên thực tế các dịch vụ hỗ trợ pháp lý và tham vấn tâm lý
cũng được các bên cung cấp dịch vụ ưu tiên hơn và do vậy cũng phát triển tốt hơn: 88.4% trong tổng số người
được hỏi trong Khảo sát Người thụ hưởng đã nhận các hỗ trợ về tham vấn tâm lý, 69.77% nhận các dịch vụ
trợ giúp pháp lý trong khi chỉ có 26.2% nhận hỗ trợ giáo dục và 30.2% nhận hỗ trợ học nghề.
123 Phỏng vấn riêng, phụ nữ trẻ là nạn nhân của buôn bán trẻ em ở tại TTBTXH Lào Cai, 27/11/2017 124 Phỏng vấn riêng, phụ nữ trẻ là nạn nhân của buôn bán trẻ em ở tại TTBTXH Bắc Giang, 21/12/2017
THẮP SÁNG HY VỌNG
72
Khi nhóm nghiên cứu cố gắng tìm hiểu mong ước và nguyện vọng của người bị buôn bán về tương lai, nhiều
thanh thiếu niên bị buôn bán đã bày tỏ mong muốn đặc biệt về những hỗ trợ liên quan đến sinh kế, giáo dục
và đào tạo học nghề. Đây cũng là những hỗ trợ mà được chính các nhà cung cấp dịch vụ nói rằng cần phải cải
thiện. Một đại diện cơ quan chức năng đã nhấn mạnh: “Cần có nhiều việc làm và phải định hướng cho họ, đặc
biệt là thanh thiếu niên, phụ nữ và trẻ em để có thể tìm cho họ một công việc ổn định và đảm bảo tình trạng
tài chính ổn định cho họ”125. Hơn nữa, như đã đề cập ở phần 4 về mối liên hệ giữa hoàn cảnh kinh tế với các
yếu tố dễ bị tổn thương dẫn đến bị buôn bán, những hỗ trợ nói trên đặc biệt quan trọng để đảm bảo người bị
buôn bán trở về tái hoà nhập thành công.
125 Phỏng vấn riêng, đại diện Sở LĐTBXH Huế, 12/12/2017
Tháng 6/2019
73
8. Kết luận và Khuyến nghị
Khảo sát nghiên cứu này được thực hiện nhằm củng cố các thông tin và bằng chứng về nạn buôn bán và bóc
lột lao động trẻ em ở Việt Nam bằng một phương pháp tiếp cận thực nghiệm dựa trên những trải nghiệm thực
tế bị buôn bán của trẻ em và thanh thiếu niên. Nghiên cứu thực nghiệm này được tiến hành cùng với sự kết
nối về mặt lí thuyết giữa định nghĩa pháp lý về buôn bán người với những thông tin chi phối xung quanh vấn
đề này. Điều này là cần thiết nhằm xây dựng một phương pháp tiếp cận khách quan và hiệu quả để đo lường
buôn bán người, đặc biệt trong bối cảnh có những thách thức, sợ mơ hồ và áp lực xung quanh định nghĩa buôn
bán người; và hơn nữa là để cho thấy thời điểm nào, liệu và thực tế buôn bán người ở Việt Nam giống hay
khác với những thông tin chi phối, định nghĩa pháp lý và các ưu tiên xây dựng chương trình như thế nào. Báo
cáo kết quả phân tích các xu hướng và động lực buôn bán và bóc lột lao động trẻ em, xác định các yếu tố chủ
chốt làm gia tăng tính dễ bị tổn thương đến buôn bán người của trẻ và đánh giá trải nghiệm tiếp cận dịch vụ
và tái hoà nhập cộng đồng của người bị buôn bán trở về. Dưới đây là những kết luận chính từ nghiên cứu cũng
như các khuyến nghị cho công tác phòng ngừa và ứng phó với nạn buôn bán trẻ em.
8.1. Các phát hiện chính và kết luận
Trải nghiệm (chỉ ra là) buôn bán trẻ em không phải là hiếm gặp
Các kết quả nghiên cứu cho thấy 5.6% trẻ em ở Việt nam có nhiều khả năng có các trải nghiệm chỉ ra là hoặc
giống với buôn bán trẻ em (chỉ số buôn bán), một con số được xem là cao hơn đáng kể so với ước lượng chính
thức. Chỉ số buôn bán phân bố khắp trên cả nước mặc dù một vài khu vực có nguy cơ cao hơn. Trái ngược với
những câu chuyện chủ đạo về buôn bán người vốn có xu hướng tập trung vào bé gái và nữ thanh niên là nạn
nhân của buôn bán tình dục, các chỉ số được tìm thấy lại xuất hiện ở hàng loạt các nghề khác nhau, trong đó
bé gái/nữ thanh niên, bé trai/nam thanh niên đều có nguy cơ như nhau.
Trải nghiệm bị buôn bán xảy ra theo một chuối sự việc liên tục – và do vậy để xác định được hành vi buôn bán
thì cần phải thiết lập một ngưỡng mà ở đó điều kiện làm việc trở nên bóc lột, mọi sự sắp đặt trở thành cưỡng
ép, vv. Trên cơ sở này, có khả năng có nhiều trẻ em và thanh thiếu niên dễ bị tổn thương đã gần chạm tới
ngưỡng này nhưng chưa đủ điều kiện hoặc những người đã đến ngưỡng nhưng lại không được công nhận
chính thức.
Phần lớn các trường hợp buôn bán người đều bắt đầu bằng sự tự nguyện
Thay vì bị tuyển mộ ép buộc, phần lớn nạn nhân buôn bán người lại là người chủ động quyết định di cư để tìm
đến các cơ hội tốt hơn và bị bị bóc lột khi theo đuổi các cơ hội này và thường là do tính dễ bị tổn thương của
họ. Trong nhiều trường hợp, các nạn nhân ban đầu được tuyển dụng thông qua những lời hứa giả dối về thu
nhập, công việc, cơ hội giáo dục và đào tạo.
Việc tuyển mộ của trẻ rồi rơi vào hoàn cảnh bị buôn bán thường bị tác động bởi cha mẹ trẻ, gia đình và cộng
đồng. Trẻ ở độ tuổi nhỏ hơn được tìm thấy là ít có sự tự chủ trong việc ra quyết định rời nhà đi làm so với trẻ
lớn tuổi hơn. Điều này phản ánh tính phụ thuộc của trẻ ‐ đối tượng dường như hiếm khi được tự động quyết
định các vấn đề liên quan đến cuộc sống của mình và thường có xu hướng bị ảnh hưởng bởi mong muốn và
quyết định của người khác.
THẮP SÁNG HY VỌNG
74
Đói nghèo và khó khăn gia tăng tính dễ bị tổn thương dẫn đến bị buôn
Buôn bán người tác động đến các cá nhân có xuất thân đa dạng khác nhau, tuy nhiên, trẻ em và thanh thiếu
niên xuất thân từ hoàn cảnh thiếu thốn và nghèo đói thường đặc biệt dễ bị tổn thương bởi họ thường có nhu
cầu theo đuổi các cơ hội để kiếm thu nhập hoặc để có được sự ổn định kinh tế, họ ít có các lựa chọn thay thế
và thường dễ dàng tham gia vào các thỏa thuận hoặc hợp đồng có tính rủi ro cao. Trong khi các câu chuyện
chủ đạo có xu hướng mô tả nạn nhân bị buôn bán có các đặc điểm nội tại khác dễ làm họ bị tổn thương như
bị suy giảm năng lực tâm thần hoặc xuất thân là người dân tộc thiểu số thì những bằng chứng từ khảo sát
nghiên cứu này lại không đồng tình với các mối liên hệ nói trên.
Bạo lực là nguyên nhân chính dẫn đến các hệ quả suy giảm sức khoẻ tinh thần.
Phần lớn các nạn nhân của buôn bán trẻ em đều đã từng phải chịu một vài loại hình bạo lực, bóc lột sức lao
động hoặc (trong hầu hết các trường hợp) là cả hai. Khảo sát nghiên cứu cho thấy lao động trong hoàn cảnh
bị bóc lột thường gắn với việc bị bạo lực: Giải mã các số liệu định tính cho thấy các đối tượng buôn người sử
dụng bạo lực là cơ chế để củng cố các điều kiện lao động bóc lột.
Các bằng chứng từ khảo sát nghiên cứu cho thấy bạo lực có ảnh hưởng không nhỏ đến các nạn nhân của buôn
bán trẻ em, tác động tiêu cực đến sức khỏe tinh thần của họ, kể cả về lâu dài. Đã trải qua bạo lực được tìm
thấy là một trong những yếu tố quan trọng nhất dẫn đến hệ quả làm suy yếu sức khoẻ tinh thần của nạn nhân.
Nạn nhân phải chịu đựng nhiều hình thức cưỡng ép và kiểm soát nhưng lại thường tự mình thoát ra
khỏi hoàn cảnh đó
Nhiều thỏa thuận buôn bán dần dần trở thành cưỡng ép khi các nạn nhân ban đầu hợp tác với các đối tượng
người và sau đó ngày càng mất khả năng kháng cự hoặc tự thoát ra khỏi hoàn cảnh. Một số dạng cưỡng ép có
thể khó nhận ra, ví dụ như việc ngắt thông tin liên lạc (bắt đầu từ việc tịch thu điện thoại của nạn nhân cho
đến những khó khăn từ rào cản ngôn ngữ) hoặc giữ nạn nhân trong một môi trường cô lập và xa lạ; trong khi
đó có một số hình thức cưỡng ép khác thường dễ nhận ra hơn (ví dụ như bị theo dõi, bị nhốt trong nhà và bị
đe dọa sử dụng vũ lực).
Người sống sót sau buôn bán phải chịu các hậu quả về sức khoẻ tinh thần và vật lộn để tái hoà nhập
Bằng chứng từ khảo sát nghiên cứu đã xác nhận những tác động có hại đến sức khỏe tinh thần của những
người sống sót sau buôn bán. Sức khoẻ tinh thần bị suy giảm gia tăng thách thức cho người bị buôn bán trở
về tái hoà nhập cộng đồng vốn bị trầm trọng hoá thêm bởi sự kì thị, đặc biệt là đối với phụ nữ và trẻ em gái.
Thách thức tái hoà nhập cộng đồng của người sống sót sau buôn bán được kết hợp bởi những yếu tố như đói
nghèo, thiếu các cơ hội kinh tế vốn là nguyên nhân từ đầu làm cho họ dễ có nguy cơ bị buôn bán.
Phần đông người sống sót sau buôn bán chưa bao giờ tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ
Các bằng chứng chỉ ra rằng, ở Việt Nam, việc tiếp cận dịch vụ rất bị giới hạn và có một số lượng lớn trẻ em và
thanh thiếu niên là nạn nhân của buôn bán người chưa bao giờ được tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ. Chỉ có chưa
đến 1 phần 10 (9,48%) trong số những người đã từng bị buôn bán hoặc bóc lột lao động tham gia trả lời các
câu hỏi khảo sát cho biết họ đã nhận được một số hình thức hỗ trợ. Ngoài ra, các dịch vụ hỗ trợ lại chỉ tập
trung vào một mảng nạn nhân nhất định, điển hình là các nữ nạn nhân bị buôn bán qua biên giới để bóc lột
tình dục và kết hôn. Các nhóm bị nguy hiểm khác như nam nạn nhân làm việc trong các công trường xây dựng,
Tháng 6/2019
75
ngành nghề dịch vụ và đánh bắt hải sản cũng như những người bị buôn bán trong nội địa nhận được rất ít sự
quan tâm.
Người sống sót sau buôn bán đối mặt với nhiều rào cản đáng xem xét khi tiếp cận dịch vụ. Từ góc độ cung, các
nhà cung cấp dịch vụ khẳng định rằng nhiều người bị buôn bán đã phải đấu tranh để được chính thức công
nhận là nạn nhân, vốn là điều kiện cần thiết để được tiếp cận với các dịch vụ hỗ trợ. Từ bên phía cầu, người
sống sót sau buôn bán cảm thấy ngại ngần không muốn tìm đến các dịch vụ hỗ trợ vì lo sợ những kì thị liên
quan đến việc bị buôn bán, chủ động từ chối được xác định ‘là nạn nhân’, nỗi lo sợ phải chịu hậu quả vì di cư
bất hợp pháp hay có khả năng liên lụy đến các hoạt động bất hợp pháp khác.
8.2. Định hướng cho các nỗ lực phòng ngừa và ứng phó với buôn bán người
Các dẫn chứng được giới thiệu ở khảo sát nghiên cứu này đã đưa ra định hướng cho các sáng kiến về chính
sách và chương trình phòng ngừa và ứng phó với nạn buôn bán trẻ em và bóc lột lao động. Các “bài học kinh
nghiệm” trình bày dưới đây cũng được rút ra dựa trên các kết quả đầu ra của các tham vấn đa chiều với các
đối tác chính phủ cũng các phản hồi được thu thập tại hội thảo trình bày kết quả nghiên cứu được tổ chức với
sự tham gia của các đối tác chính phủ, tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ nhằm thảo luận về các
định hướng cho kết quả của nghiên cứu.
Thúc đẩy một cách tiếp cận tích hợp cho công tác phòng chống buôn bán người
Các nỗ lực phòng ngừa và ứng phó với nạn buôn bán trẻ em cần được tích hợp vào các hệ thống và dịch vụ
được thiết kế để giải quyết tính dễ bị tổn thương và nguy cơ một cách rộng hơn, cụ thể là các hệ thống và dịch
vụ bảo vệ trẻ em. Trong hai thập kỉ qua, với sự quan tâm và các nguồn lực đáng kể dành cho các sáng kiến về
phòng chống buôn bán người trên toàn cầu, các nỗ lực phòng ngừa và ứng phó thường được xây dựng và cung
cấp như các hệ thống và dịch vụ song song – đây cũng là trường hợp của Việt Nam. Điều này không chỉ tạo ra
sự thiếu hiệu quả tiềm ẩn có nguy cơ làm suy giảm các điểm mạnh và tính hiệu quả của một hoặc cả hai hệ
thống mà nó còn dựa trên nhận định sai lầm rằng, vì một lí do nào đó, bạo lực và bóc lột mà trẻ em phải chịu
trong quá trình bị buôn bán về căn bản không liên quan đến các hình thức bạo lực, bóc lột và lạm dụng khác.
Ngoài việc tăng cường hệ thống bảo vệ trẻ em trong nước, các sáng kiến phòng chồng buôn bán trẻ em cần
giúp đảm bảo rằng trẻ bị buôn bán, trẻ di cư và tị nạn được đề cập trong đó và được trang bị để ứng phó với
mọi hình thức gây hại xảy ra bên ngoài gia đình của trẻ em và thanh thiếu niên.
Phòng ngừa buôn bán và bóc lột lao động trẻ em
Các cơ quan chức năng của nhà nước cùng các Tổ chức Phi Chính phủ nên phối hợp để đẩy mạnh khả
năng tiếp cận của trẻ em và thanh thiếu niên tới các chương trình đào tạo toàn diện về di cư, quyền
lao động và cách thức tiếp cận với các cơ chế bảo vệ. Các hoạt động phòng ngừa ở Việt Nam đã và
đang tập trung vào các chiến dịch truyền thông nâng cao nhận thức cho cộng đồng về nguy cơ buôn
bán người cũng như giáo dục tuyên truyền pháp luật về các hành vi bị cấm liên quan đến buôn bán
người, tuy nhiên điều quan trọng là phải đảm bảo mọi thông điệp đều không chứa đựng sự kì thị hay
phán xét nạn nhân. Các thông điệp cần được xây dựng dựa trên nền tảng chia sẻ thông tin đa dạng (ví
dụ như mạng xã hội, vv) và được thiết kế phù hợp với sở thích của thanh thiếu niên để họ có thể tiếp
cận và thu thập thông tin cũng như tích hợp vào trong các tài liệu giảng dạy.
THẮP SÁNG HY VỌNG
76
Các chiến lược phòng ngừa tập trung vào việc chia sẻ thông tin liên quan đến nguy cơ có thể sẽ có các
hiệu quả hạn chế khi mà mọi người thiếu những cơ hội lựa chọn thay thế khả thi, thay vào đó chúng
nên luôn luôn đi kèm với các chương trình hỗ trợ giảm thiểu tính dễ bị tổn thương về mặt kinh tế và
tăng cường các mạng lưới an toàn xã hội (xem bên dưới). Trong bối cảnh có nhiều thanh thiếu niên bị
buôn bán trong khi theo đuổi quyết định di cư vì mục đích kiếm tiền hoặc việc làm trên toàn cầu, các
chương trình truyền thông tích cực nên thông báo cho thanh thiếu niên và gia đình họ về quyền lợi
lao động và di cư cũng như những quyền mà họ được hưởng khi có sự cố. Các chiến lược này cần được
củng cố bởi một khung chính sách thiết thực thúc đẩy quyền tiếp cận các lộ trình di cư và việc làm an
toàn của thanh thiếu niên.
Các nỗ lực phòng ngừa cũng nên tập trung vào việc chống lại sự kì thị mà nạn nhân bị buôn bán gặp
phải khi họ quay trở về cộng đồng, giữa cộng đồng với nhau cũng như là một phần trong các hoạt động
nâng cao kĩ năng dành cho các lực lượng thực thi pháp luật và các nhà cung cấp dịch vụ. Các can thiệp
giáo dục nên được thiết kế để đối mặt với sự kì thị xung quanh vấn đề di cư lao động và mại dâm cũng
như hợp tác với gia đình và cộng đồng để thúc đẩy việc chào đón sự trở về và chấp nhận người sống
sót hậu buôn bán. Trong trường hợp trẻ em hoặc thanh thiếu niên tiếp nhận tư pháp hình sự hoặc các
ứng phó bảo vệ trẻ em, cần có các biện pháp chăm sóc để đảm bảo rằng cha mẹ trẻ sẽ không bị đổ lội
hay bị truy cứu trách nhiệm hình sự cho các sự cố lạm dụng và khai thác mà không nằm trong khả năng
có thể ngăn ngừa của họ.
Các nỗ lực phòng ngừa trẻ em nên ưu tiên việc thúc đẩy trẻ em tiếp cận các chương trình giáo dục và
đào tạo kĩ năng và các chương trình sinh kế và cơ hội việc làm an toàn (cho trẻ lớn và thanh thiếu
niên). Ngoài ra, trẻ và gia đình trẻ nên được trao cơ hội tiếp cận các chương trình tiết kiệm, khoản vay
và hỗ trợ phát triển kinh doanh (ví dụ thông qua việc cung cấp các chuyên gia huấn luyện trong cộng
đồng kinh doanh để hỗ trợ xây dựng kĩ năng và thiết lập hoạt động kinh doanh. Để đáp ứng nhu cầu
của thị trường, các cơ quan chức năng và các đối tác phi chính phủ nên xem xét việc thúc đẩy tạo lập
các cơ hội di cư lao động an toàn và hợp pháp (ví dụ giấy phép lao động) cho người trẻ tuổi nhằm tăng
cường khả năng tiếp cận các cơ hội việc làm.
Một mạng lưới an toàn chuẩn chỉ có thể góp phần phòng ngừa buôn bán người thông qua việc giảm
thiểu sức ép buộc phải chấp nhận những lời chào mời rủi ro lên trẻ em và thanh thiếu niên. Đặc biệt,
các cơ quan chức năng của nhà nước nên được khuyến khích để cải thiện việc tiếp cận các dịch vụ xã
hội, bao gồm an sinh xã hội, bảo trợ xã hội, trợ cấp thất nghiệp và trẻ em, thanh thiếu niên và gia đình
chúng, đặc biệt ở những cộng đồng dễ bị tổn thương, được tiếp cận các dịch vụ y tế và giáo dục miễn
phí.
Cuối cùng, các nỗ lực phòng ngừa nên xem xét mở rộng các biện pháp bảo vệ pháp lý cho người lao
động (di cư) và thúc đẩy việc thực thi các chính sách đó. Bên cạnh việc tăng cường khung pháp lý bảo
vệ quyền lợi người lao động, các chương trình kế hoạch đã định nên được tăng cường để thúc đẩy
trách nhiệm xã hội và tính minh bạch giữa các dây chuyền cung cấp giữa các ngành. Các doanh nghiệp
lớn hơn nên được hỗ trợ để lập bản đồ rủi ro dây chuyền cung cấp và tính minh bạch của mình liên
quan đến tuyển dụng, việc làm, mua sắm và cơ chế khiếu nại nên được khuyến khích ở cả khu vực
công và tư nhân.
Tháng 6/2019
77
Thúc đẩy chính sách và giám sát các cơ quan tuyển dụng nên được ưu tiên. Các trang web và nền
tảng tuyển dụng an toàn và đúng quy định nên được xây dựng và quảng bá.
Tăng cường ứng phó với nạn buôn bán trẻ em
Cần tăng cường năng lực cho các cán bộ chức năng đến từ các lực lượng thực thi pháp luật, xuất nhập
cảnh, y tế, giáo dục, bảo trợ xã hội và người đứng đầu cộng đồng để nhận diện các dấu hiệu buôn bán
trẻ em, đặc biệt trong các ca buôn bán nội địa hoặc buôn bán để bóc lột lao động và để biết họ phải
làm gì khi nhận thấy dấu hiệu đó. Tuy không loại trừ “các điểm nóng về buôn bán người” mặc dù
những địa bàn này đã nhận được nhiều quan tâm đáng kể song các hoạt động xây dựng năng lực nên
được triển khai trên toàn quốc, ưu tiên những khu vực mà ở đó các lực lượng chức năng chưa được
tham gia các khoá đào tạo nâng cao năng lực.
Việc xác định một người là ‘nạn nhân của buôn bán trẻ em’ và việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ không
bao giờ nên phụ thuộc vào sự sẵn sàng hợp tác hoặc cung cấp lời khai cho công an của người đó, cũng
không nên phụ thuộc vào việc xác định và truy tố thành công kẻ phạm tội. Các cơ quan chức năng của
Việt Nam nên đảm bảo rằng các nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ, những cán bộ làm công tác trực tiếp nắm
được những thay đổi gần đây về mặt chính sách trong đó đã bỏ quy định người bị buôn bán phải có
giấy chứng nhận là nạn nhân do các cơ quan chức năng có thẩm quyền cung cấp mới được tiếp cận
các dịch vụ hỗ trợ ‐ các dịch vụ hỗ trợ nên được cung cấp một cách toàn diện nhất khi nhận thức
được rằng buôn bán người tác động tới cả nam giới và trẻ em trai và có nhiều hình thức bóc lột
khác nhau ngoài bóc lột tình dục.
Cần tiếp tục rà soát và sửa đổi khung luật pháp và chính sách trong nước để tiệm cận gần hơn đến
các tiêu chuẩn và thực tiễn tốt của quốc tế, đặc biệt là định nghĩa buôn bán người và buôn bán trẻ em
được quy định lần lượt ở các Điều 150, 151 Bộ Luật Hình sự. Điều này sẽ bao gồm việc mở rộng khái
niệm buôn bán trẻ em áp dụng cho mọi đối tượng từ 18 tuổi trở xuống và làm rõ việc chứa chấp, tuyển
mộ và vận chuyển trẻ em để bóc lột là đủ để cấu thành hành vi buôn bán người kể cả không có yếu tố
chuyển giao hoặc tiếp nhận đứa trẻ giữa hai người khác nhau.
Các bên liên quan ở Việt Nam đã nêu lên những quan ngại khi nạn nhân của buôn bán trẻ em được
xác định bởi các cơ quan chức năng, họ thường không được chỉ định người giám hộ đại diện cho lợi
ích khẩn cấp ban đầu của mình, hoặc, trong một số trường hợp hoặc trong mọi trường hợp, điều căn
bản là mọi nạn nhân được chỉ định một người giám hộ để đại diện cho quyền lợi tốt nhất của họ và
hỗ trợ trong suốt quá trình ứng phó với buôn bán người (cho đến khi một giải pháp lâu dài được đưa
ra).
Để có hiệu quả, các dịch vụ ứng phó với buôn bán trẻ em nên được cung cấp thông qua một ứng phó
quản lý ca tích hợp áp dụng cho mọi nạn nhân được xác định không tính đến việc họ có đang ở trong
các cơ sở hỗ trợ nạn nhân hay đã (tái) hoà nhập cộng đồng. Cụ thể, cần thực hiện một đánh giá toàn
diện về công tác xã hội để xác định nhu cầu của từng cá nhân trẻ. Một kế hoạch chăm sóc cá nhân
hoá nên được xây dựng dựa trên cơ sở của đánh giá này để chỉ định các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của
trẻ cũng như xác định các chương trình trình chăm sóc phù hợp với lợi ít tốt nhất của trẻ. Việc triển
khai thực hiện nên khuyến khích có sự phối hợp đa ngành giữa một cán bộ chủ chốt chịu trách nhiệm
THẮP SÁNG HY VỌNG
78
quản lý ca cá nhân hoá này với các bên khác. Các chuyến viếng thăm giám sát và theo dõi nên được
tiến hành khi đứa trẻ đã trở về hoà nhập cộng đồng để đảm bảo rằng đứa trẻ có thể vượt qua được
sự kì thị và những vấn đề dễ bị tổn thương cơ bản đã được giải quyết đầy đủ.
Điều cần thiết là các hướng dẫn trong ứng phó với buôn bán trẻ em được tích hợp vào các sáng kiến
rộng hơn để xây dựng một hệ thống bảo vệ và tư pháp trẻ em nói chung. Điều này bao gồm việc xây
dựng các thoả thuận liên ngành và thực tiễn về công tác xác định, đánh giá, bảo vệ và theo dõi trẻ em
có nhu cầu bảo vệ và chăm sóc, nạn nhân trẻ em, nhân chứng các vụ án là trẻ em, bao gồm cả người
sống sót sau buôn bán. Điều này có khả năng đòi hỏi một chương trình xây dựng năng lực rộng hơn
dành cho những người làm công tác xã hội để đảm bảo rằng có đủ vật chất, nhân lực và tài chính thực
hiện nhiệm vụ của mình.
Các kế hoạch chăm sóc cá nhân hoá nên toàn diện – đảm bảo cung cấp các hỗ trợ tâm lý chuyên biệt,
chăm sóc y tế khi cần, vận động và đại diện pháp lý, tiếp cận các cơ hội giáo dục, đào tạo và việc làm.
Hỗ trợ vật chất và tinh thần cho gia đình trẻ em và thanh thiếu niên bị mua bán nên là một phần của
kế hoạch chăm sóc cá nhân hoá.
Đánh giá công tác xã hội toàn diện nên được tiến hành với tất cả trẻ em và thanh thiếu niên đã trải
qua việc bị buôn bán. Đánh giá này nên xem xét liệu một đứa trẻ có thể trở về nhà trước hay ngay sau
khi nó được đưa tới các trung tâm chăm sóc tạm thời. Trẻ em chỉ nên được cho ở trong các trung tâm
chăm sóc hoặc cơ sở hỗ trợ nạn nhân nếu việc trở về gia đình của trẻ là không thể hoặc thiếu an toàn
và nhận thức được rằng việc để trẻ ở tại các trung tâm chăm sóc phần nào hạn chế sự tự do của chúng.
Kế hoạch chăm sóc cá nhân hoá cho những trẻ không ở tại trung tâm nên có cả việc cung cấp các dịch
vụ hỗ trợ có sẵn ở cộng đồng để hỗ trợ các kế hoạch phục hồi và tái hoà nhập của trẻ em/thanh thiếu
niên và gia đình.
Các biện pháp đặc biệt nên được áp dụng để hỗ trợ trẻ em và thanh thiếu niên tham gia an toàn vào
hệ thống tư pháp hình sự trên cơ sở vừa là bị can, vừa là bị cáo, bao gồm việc sử dụng ngôn ngữ và
môi trường thân thiện với trẻ, hạn chế tối đa sự ràng buộc về thể chất và tự do của trẻ. Các chính
sách trong nước cần được xây dựng để hỗ trợ và thực thi các chương trình bảo vệ nhân chứng áp dụng
cho mọi trẻ em/thanh thiếu niên và gia đình chúng thúc đẩy sự hợp tác của trẻ và gia đình trẻ trong
quá trình truy tố xét xử tội phạm buôn bán người. Các chiến dịch truyền thông nên được triển khai
hướng đến việc cung cấp thông tin cho các lực lượng thực thi pháp luật, tư pháp hình sự về quyền của
trẻ em và thanh thiếu niên bị buôn bán.